THÔNG BÁO !

Trang blog diễn đàn đã được dời sang địa chỉ mới http://ptlambao.blogspot.com/ . Vui lòng vào đây để theo dõi tin tức mới và tiện việc ủng hộ. Trang này sẽ lưu giữ những thông tin cũ . Xin cả ơn sự ủng hộ của mọi người

TM Ban Điều Hành Blog

06 July 2011

Đông Dương Đại Hải chứ không phải Biển Nam Trung Hoa

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2011-07-06

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu vừa phát hiện một chi tiết mới cho thấy
danh xưng South China Sea còn gọi là Biển Nam Trung Hoa có tên gốc là
Giao Chỉ Dương, hay Đông Dương Đại Hải hay ngắn gọn nhất là Đông Hải
có nghĩa là Biển Đông

Source daidoanket-online

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu.
Mặc Lâm phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu để biết thêm chi tiết
về vần đề này, trứơc tiên ông Nguyễn Đình Đầu cho biết:
Những sai lầm về ngôn ngữ, và địa danh
- Cuối thế kỷ 15 người Tây Phương rất giỏi về hàng hải, đặc biệt là
người Bồ Đào Nha và người Tay Ban Nha họ đi kiếm Ấn Độ. Lúc bấy giờ
ông Kha Luân Bố (Christophe Colomb) tin rẳng đi về phía Tây sẽ đến Ấn
Độ, nhưng thực tế ông đến Tân Thế Giới, tức Châu Mỹ, mà ông tưởng là
đã đến Ấn Độ rồi, cho nên ông gọi người thổ dân bản xứ là người người
Ấn (Indien, Indian).
Danh xưng sai nhầm này tồn tại mãi đến ngày nay, Trong khi đó người Bồ
Đào Nha đi vòng phía Tây Châu Phi, qua Mũi Hảo Vọng (lúc bấy giờ chưa
có ai đi qua ngã này cả) và đi ngược lên bờ Đông Châu Phi là đến Ấn Độ
thực, nhưng mà miền phía Đông của Ấn Độ trên các bản đồ thời đó cũng
như miền Đông Á thì hoàn toàn sai. Họ khám phá ra miền Đông Nam Á là
miền mà họ gọi là "Presqu'ile de l'Inde delà le Gange" tức là "Ấn Độ
bên kia sông Hằng". Trong sự nhìn ngược như thế suốt mấy thế kỷ họ gọi
cái bán đảo mà về sau ta gọi là Bán Đảo Đông Dương, là "bán đảo Ấn Độ
bên kia sông Hằng".

(Bồ Đào Nha)Họ khám phá ra miền Đông Nam Á là miền mà họ gọi là
"Presqu'ile de l'Inde delà le Gange" tức là "Ấn Độ bên kia sông Hằng".
Trong sự nhìn ngược như thế suốt mấy thế kỷ họ gọi cái bán đảo mà về
sau ta gọi là Bán Đảo Đông Dương, là "bán đảo Ấn Độ bên kia sông Hằng.

Cũng vào thời ấy, giữa bờ biển nước ta và quần đảo Paracel (gồm cả
Hoàng Sa và Trường Sa), các bản đồ thường ghi là vịnh Giao Chỉ gần
Trung Hoa (Golfe de la Cochinchine). Địa danh Cochinchine nguyên là
tên hai nước Giao Chỉ (Cochin) và nước Tần (Chine), viết theo Hán tự.
Người Tây phương đọc âm hơi khác rồi ghi bằng chữ latin: Giao Chỉ (tức
Việt Nam) thành Cauchy, Cochi, Cochin; còn Tần thành ghi là T'sin,
Cin, Chine hay China. Nước Cochin (Giao Chỉ) trùng tên một thị trấn
Cochin ở Ấn Độ nên người Bồ Đào Nha ghi
Bản đồ có nghi nhận Cochinchine của St.Defnos. Ing-Geographe pour les
Globes et Sphère- Paris 1766. Source raremaps online
Bản đồ có nghi nhận Cochinchine của St.Defnos. Ing-Geographe pour les
Globes et Sphère- Paris 1766. Source raremaps online
CochinChina (Giao Chỉ gần nước Tần-China) cho dễ phân biệt. Cochin là
chủ từ, China là túc từ. China thành tên nước Trung Hoa.
Mặc Lâm : Thưa ông, vậy thì nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi cái
tên gốc, tức là Giao Chỉ, hay còn gọi là Cochi, Cochin này ?
Ông Nguyễn Đình Đầu : Đến thế kỷ 19 lúc bấy giờ đã rõ miền này không
thuộc Ấn Độ nữa. Khi họ ghi chép lại về các miến biển thì họ không lấy
cái chữ chủ từ là Ấn Độ, là Cochin, Giao Chỉ là Cochi, mà họ lấy cái
túc từ là "Tần" tức Trung Hoa. Bấy giờ họ mới bắt đầu ghi là "Biển
Trung Hoa", còn trước nữa thì họ đều ghi là hoặc "Eo biển Giao Chỉ gần
Trung Hoa" tức là họ ghi "Gorge de la Cochinchine".
Chữ Cochinchine đầu tiên để chỉ nước Việt Nam, lúc đầu tiên gọi là
Cochi thôi, về sau họ thấy nó trùng tên với Ấn Độ (như tôi nói lúc
nãy) thì họ mới gọi là Cochinchine. Cochinchine lúc đầu tiên để chỉ cả
Đại Việt, và biển thì họ cũng gọi là Biển Cochinchine. Tôi thấy là tất
cả các bản đồ cho đến thế kỷ 18 thì đa số bản đồ vẫn còn gọi cái phía
Đông Nam Á là l'Inde au delà du Gange, tức là họ vẫn coi là bán đảo
Ấn Độ. Mãi về sau đến thế kỷ 19 thì họ mới gọi là bán đảo Đông Dương,
tức Indochine. Đông Dương tức là Biển Đông, tức là cái biển bên cạnh
nước Việt Nam đấy. Thì chính người Trung Hoa gọi là Đông Dương, hay là
Đông Dương Đại Hải.

Mãi về sau đến thế kỷ 19 thì họ mới gọi là bán đảo Đông Dương, tức
Indochine. Đông Dương tức là Biển Đông, tức là cái biển bên cạnh nước
Việt Nam đấy. Thì chính người Trung Hoa gọi là Đông Dương, hay là Đông
Dương Đại Hải.

Đường lưỡi bò là sai với sự thực lịch sử
Mặc Lâm : Thưa, phải chăng Trung Quốc lợi dụng sự hiểu lầm này để mà
nhận luôn danh xưng là "South China Sea" tức là "Biển Nam Trung Hoa"
hay không, thưa ông?
Ông Nguyễn Đình Đầu : Vì những sự sai lầm về ngôn ngữ, về địa danh
như thế mà tôi phỏng đoán có thể vì thế mà người Trung Hoa cho tất cả
thế giới đã nhận cái biển đây là "Biển Trung Hoa", thế thì tất cả các
đảo, quần đảo ở trong vùng biển mà họ gọi là Biển Trung Hoa đó là của
họ hết. Cho đến đầu thế kỷ 20 với tham vọng của mình mà Trung Quốc dựa
theo sự hiểu nhầm địa danh đấy mà đến năm 1948, lúc bấy giờ nước ta
đang có chuyện chiến tranh ở khắp các nơi, thì Trung Hoa Dân Quốc họ
đưa ra cái "lưỡi bò" đấy và với cái lưỡi bò đó họ gần như họ chiếm hết
cả Biển Đông, khác với tất cả các nước xung quanh. Đó là một sự bất
công và sai với sự thực lịch sử, không kể những tài liệu của Việt Nam
đã cho thấy họ đã ra Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa với các văn bản và
một số bản đồ.

đến đầu thế kỷ 20 với tham vọng của mình mà Trung Quốc dựa theo sự
hiểu nhầm địa danh đấy mà đến năm 1948, lúc bấy giờ nước ta đang có
chuyện chiến tranh ở khắp các nơi, thì Trung Hoa Dân Quốc họ đưa ra
cái "lưỡi bò" đấy và với cái lưỡi bò đó họ gần như họ chiếm hết cả
Biển Đông

Tôi nghiên cứu thêm về các bản đồ cũ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam ngày
xưa, và những bản đồ của Tây Phương, ít nhất từ đầu thế kỷ 16 cho đến
về sau này họ đều ghi tất cả cái mảng từ Trường Sa lên tới Hoàng Sa,
họ kêu là Paracels, và họ ghi cái bờ biển Paracels ở khoảng Quảng
Ngãi. Tôi thì có độ một trăm hay hai trăm cái bản đồ quốc tế vẽ về
Việt Nam, vẽ về Đông Dương, và tôi nghĩ là có lẽ là hàng ngàn bản
"Vùng lưỡi bò" trên biển Đông
"Vùng lưỡi bò" trên biển Đông do Trung Quốc đưa ra. Source UNCLOS
đồ ấy tôi không thấy một bản đồ nào ghi bờ biển Paracels ở Trung Hoa,
ở đảo Hải Nam, hay là Philippines, hay Nam Dương, hay Mã Lai. Các bản
đồ mà tôi công bố đó thì chứng minh điều mà tôi vừa nói.
Mặc Lâm : Căn cứ trên những bản đồ cổ mà ông có trong tay, liệu có
thể dùng chúng như một chứng cứ để chống lại đường lưỡi bò mà Trung
Quốc vẫn tuyên bố là họ đã có từ lâu về vùng biển South Chia Sea này
không ạ?
Ông Nguyễn Đình Đầu : Một hai cái bản đồ thì có thể nói là người ta
ghi đại hay người ta ghi nhầm gì đấy, nhưng mà hàng trăm hàng ngàn cái
bản đồ ghi như thế mà nó trùng hợp với cái bản đồ của Việt Nam.

Tôi thì có độ một trăm hay hai trăm cái bản đồ quốc tế vẽ về Việt
Nam, vẽ về Đông Dương, và tôi nghĩ là có lẽ là hàng ngàn bản đồ ấy tôi
không thấy một bản đồ nào ghi bờ biển Paracels ở Trung Hoa, ở đảo Hải
Nam, hay là Philippines, hay Nam Dương, hay Mã Lai.

Tôi phỏng đoán cái bản đồ Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ từ thời Nguyễn
Ánh - Gia Long thì đã có bản đồ ấy rồi. Cụ thể mà đưa ra cái bản đồ
mà thường thường người ta ra bây giờ hiện thời là cái bản đồ Minh Mạng
vẽ năm 1839, vì lúc bấy giờ ông Minh Mạng đổi tên nước Việt Nam thành
nước Đại Nam, vì thế cái bản đồ ghi là "Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ",
trong đó Hoàng Sa và Trường Sa ghi y như là các bản đồ Tây Phương vẽ
về quần đảo Paracels. Tôi nghĩ là hàng ngàn bản đồ cổ của Tây Phương
đều vẽ như thế, và người ta ghi cái biển Việt Nam lúc đầu tiên họ ghi
là Cochi, về sau họ ghi là Cochinchine. Tôi đưa tất cả các tài liệu ấy
ra thôi, chứ còn tôi chỉ có ý đồ là tôn trọng sự thực lịch sử, không
những là của mình, mình thì đã đành rồi, người ta có thể dễ bác, nhưng
mà đây là chứng liệu của khắp thế giới vẽ về Việt Nam ở trong nhiều
thế kỷ dồn lại, đưa tới kết luận như vậy thôi.
Mặc Lâm : Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn ngày hôm nay .

Theo dòng thời sự:

Bùi Tiến Dũng lĩnh tổng cộng 23 năm tù


06/07/2011 16:55:03
 - Sau hơn một tuần xét xử, chiều 6/7, TAND Hà Nội đã quyết định tuyên phạt Bùi Tiến Dũng, nguyên tổng giám đốc PMU 18 mức án 7 năm tù giam về tội "lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ". Tội danh này vừa được HĐXX chuyển trong quá trình xét xử, trước đó, ông Dũng bị VKS truy tố về tội "tham ô tài sản". 
TIN LIÊN QUAN

Bị cáo Bùi Tiến Dũng
Bị cáo Bùi Tiến Dũng
Qua 3 vụ án, ông Dũng phải nhận tổng cộng 23 năm tù về các tội: đánh bạc, đưa hối lộ, cố ý làm trái các quy định của nhà nước và lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ.

Các đồng phạm của bị cáo Dũng bị tuyên phạt: Nguyễn Vũ Nam (nguyên trưởng phòng triển khai dự án 6 - PID 6) 9 năm tù, Nghiêm Phú Sơn (phó phòng PID 6) 7 năm tù, Lê Minh Giang (phó phòng PID 5) 6 năm tù, Nguyễn Công Dũng 6 năm tù, Nguyễn Hữu Minh (kỹ sư Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 1, giám đốc điều hành gói thầu BC1 tại dự án cầu Bãi Cháy) 4 năm tù, Nguyễn Hữu Long (giám đốc điều hành gói thầu BC3) 5 năm tù, Trần Đức Hùng (chánh văn phòng tư vấn, dự án cầu Bãi Cháy) 3 năm tù về hành vi tham ô tài sản. Riêng bị cáo Đỗ Kim Quý (nguyên phó tổng giám đốc) nhận bản án 2 năm tù treo về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Theo cơ quan công tố, dự án cầu Bãi Cháy được Thủ tướng phê duyệt tổng mức đầu tư gần 1.380 tỷ đồng. Ban quản lý các dự án 18 (PMU18) được giao quản lý và thi công dự án. Lợi dụng vai trò là quản lý dự án, khi triển khai công việc được giao, Phạm Tiến Dũng (Trưởng phòng triển khai dự án 6, PID6 của PMU18) phát hiện thấy có sơ hở trong việc quản lý và chi trả lương cho các nhân viên tại các gói thầu nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền nhà nước bằng việc lập khống danh sách nhân viên tư vấn. 

Được sự đồng ý của Bùi Tiến Dũng, Phạm Tiến Dũng đã "câu kết" với một số cán bộ tại PMU18 và sự thông đồng với giám đốc điều hành các gói thầu BC1 và BC3, danh sách khống về hàng chục nhân viên tư vấn đã được lập. Bằng thủ đoạn này, từ tháng 3/2003 đến 2/2007, nhóm này đã bỏ túi gần 3,5 tỷ đồng.

Theo điều tra, trong số tiền lương khống được duyệt, ông Bùi Tiến Dũng trực tiếp ký duyệt hơn 2,7 tỷ đồng lương, tạo điều kiện cho nhóm của Phạm Tiến Dũng chiếm hưởng gần 1,6 tỷ đồng. Trong số tiền chiếm đoạt được, Bùi Tiến Dũng đã chỉ đạo biếu 500 triệu đồng làm quà nghỉ hưu cho ông Đỗ Kim Quý, nguyên Phó tổng giám đốc và chi 100 triệu đồng tiếp đãi bạn học. 

HA

.TÔI THẤY và NGHE ĐƯƠC GÌ Ở SÀI GÒN và MIỀN NAM V.N.


 



PHÓ THƯỜNG DÂN
Lời người viết:  Đây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó - mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi, tai nghe tận chỗ - ghi lại môt cách trung thực. \
PHÓ THƯỜNG DÂN


" alt="" />
Tôi thấy bộ mặt Saigòn đổi mới với: Những khách sạn 5 sao, 4 sao lộng lẫy. Đổi mới với những nhà hàng " vĩ đại " trên các tuyến đường du lịch. Với những trung tâm "thư giản" sang trọng, quý phái cở câu lạc bộ Lan Anh. Với những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hànội. Với những trường Trung học tư thục mang tên Mỷ, giáo sư Mỷ, chương trình học của Mỷ, giảng dạy bằng tiếng Mỳ- học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỷ - 600US$ đến 1000US$ /tháng. (Giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con? )  
  

   " alt="" />
Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử "đỏ", các nhà giàu mới - thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau, các quan chức đỏ đô la đầy túi. Họ đến đây để "thư giản", uống rượu, đánh bạc, cá độ và tìm gái. Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP, XO là chuyện thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô la Mỷ cũng không phải là điều lạ. Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung học trường công không đủ để trả một chai rượu XỌ Vụ MPỤ18 cá độ hàng triệu US$ đã bị phanh phui. là một thí dụ cụ thể. Vũ trường New Century bị Công an đến giải tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi… " lắc" suốt đêm. Vài hôm sau - đâu cũng vào đó…
 
 
Tôi cũng thấy Sàigòn- người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở - vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự - ở xa xa, có cái trông giống như chiếc hộp quẹt. nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại. Vật liệu nhập cảng đắc tiền. Nhà trong hẻm - phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có nhiều khu xây cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi sĩ vô duyên. , lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường…  
 
Tôi thấy Sàigòn bị ô nhiểm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ, ngày đêm đinh tai nhức óc và 3.000.000 chiếc Honda - phun khói mịt mù - chưa kể đến xe hơi.


  
 
Và hệ thống cống rảnh lạc hậu. mỗi khi trời mưa lớn - nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa. Hệ thống đổ rác còn lạc hậu. không đáp ứng nổi nhu cầu thải rác của 8.000.000 dân nhun nhúc như kiến. Sàigòn đầy dẫy những hàng ngoại do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ. hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể. Máu kinh tế Việt Nam bị loảng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận, không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung quốc giá khoản chừng 1000 đô la Mỷ. chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế, rẻ mạt. Thuốc lá và bia - bia nội, bia ngoại - có đủ. Nhậu và hút là 2 cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sàigòn. Đảng viên, cán bộ - giai cấp thống trị - nhậu. Già nhậu, trẻ nhậu… con nít cũng tập tành nhậu. Hút thì khỏi nói. Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm thống trị - đã lột xác - không còn quấn thuốc rê, bập bập phà khói mịt mù nữa - mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5, Craven A, trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút - thậm chí con nít 9, 10 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá. Các hảng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở. Cán bộ lớn cũng âu phục cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng. nhưng bộ răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước da mốc mốc, cũng không dấu được nét thô kệch của một anh nhà quê lên Tỉnh.
Tôi còn thấy Sàigòn với hiện tượng "tiếm công vi tư" lộng hành, ngang ngược của Công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán cà phê. Chưa thỏa mãn - ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy. Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu - nơi gặp gở của 2 đường Nguyễn Trải và Lê Lai cũ, ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ - thì rõ.            
 
 
Còn nhiều, rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề đường nhan nhãn ở khắp Saigòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể: Một công thự tại vườn Tao đàn (có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao đàn) - mặt tiền ngó vào trong - mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ) - bèn có màn trổ cửa mặt sau nhà, xây thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du, trị giá mỗi căn, nhiều trăm ngàn mỷ kim - ngon ơ! Tương tự như vậy - ở góc đường Thành Thái và Cộng Hoà cũ, trước sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc gia Sư Phạm trước 75 - phố thương mãi, quán xá la liệt chiếm mất mặt tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương minh Ký, đường Trần hưng Đạo, chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân chúng. Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ, bây giờ là câu lạc bộ Lao động - nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo, giày vớ thể thao, buôn bán ầm ỉ, náo nhiệt suốt ngày. 
Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả lối đi vào nhà. Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn. Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai? Tất nhiên là phải thưa với công an. Không lẽ công an xử công an? Tướng CS Trần Độ phản ảnh còn rõ rệt hơn: "Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Đảng. Không thể nào chống tham nhũng được vì nếu Đảng chống tham nhũng thì Đảng chống lại Đảng sao? " (Nhật ký "Rồng rắn" của Trần Độ).            
Nón cối, nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sàigòn - đã biến mất. 
Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi, Lê thánh Tôn, Tự do những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ - mũi và miệng bịt kín bằng "khẩu trang", găng tay dài đến cùi chỏ, cỡi Honda chạy như bay trên đường phố.
 
 
Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao túi Ny long, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống… những bà cụ già, những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường, những anh phế binh cụt tay, cụt chưn, lê lết trên một miếng ván gổ… đi bán vé số (một cách ăn xin trá hình)
 
 
Bộ mặt Sàigòn "đổi mới" bằng những khách sạn lộng lẫy, những câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại, những vũ trường cực kỳ tráng lệ, những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền. trang trí cây cảnh như một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa ngày xưa, những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố - nhiều người chóa mắt. choáng váng, cho là "Việt Nam bây giờ tiến bộ quá". Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ : Như vậy có phải là tiến bộ không? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt: Mặt y tế và giáo dục, mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng. Lợi tức đầu người của Việt Nam - theo thống kê của báo The Economist - bằng: 555 US$ năm 2007 (Hà Nội bốc lên 730 US $) chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh. So với các nước láng giềng: Thái Lan: 2.550 US$ - Phi luật Tân: 1.040 US$ - Nam Dương: 1.160.US$. Tân gia Ba 24.840 US$. (The Economist World, năm 2007 - p. 158, 176, 238) - Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa. Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy - nếu đặt câu hỏi: Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ trường, những thương hiệu lớn, những biệt thự lộng lẫy kia? - thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngủ) hoặc con cháu thân nhân của họ. Và ở thôn quê - giai cấp giàu có bây giờ là ai? giai cấp địa chủ là ai? Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do, mua bán làm ăn mà có??    
 
HIỆN TƯỢNG NGƯƠI BẮC XA HÔI CHỦ NGHĨA CHIẾM HỮU TOÀN BỘ PHỐ XÁ THƯƠNG MAI QUAN TRONG Ở SAIGÒN - KHỐNG CHẾ MỌI LÃNH VỰC TRỌNG YẾU Ở MIỀN NAM.
 
Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng "đánh Tây, đuổi Mỷ" - cho dù che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa - thì dân miền Nam (gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sàigòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sàigò. và các khu phố sầm uất nhứt, vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản - từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong - cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài, Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc, Phạm thị Trước. Hiện nay, một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cât lại. nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm buôn bán dồ nhập cảng v. v. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sàigòn thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn). Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS (do các cô tự nói ra). Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ - dĩ nhiên - vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc. Cán bộ, công nhân viên trọng yếu - cũng đều là người Bắc - trừ một số cán bộ gốc miền Nam tập kết - theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam - thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc          
Hệ thống quyền lực từ trên đến dưới - từ Trung ương đến địa phương - từ Tỉnh thành đến quận lỵ, thị trấn, làng xả gần - đều do đảng viên người miền Bắc XHCN - nắm giữ. Những công Ty dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn - điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 6000 xe hơi đủ loại, chủ nhân cũng là người Bắc XHCN. Từ chính trị đến văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất - cũng do người miền Bắc XHCN nắm giữ. 
Đó là sự thật trước mắt ai cũng thấy. Còn những vàng bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản, cải tạo công thuơng nghiệp - nhà cửa của tù cãi tạo, của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những luợng vàng thu được từ những người vuợt biên bán chánh thức - tài sản những người thuộc diện tư sản - toàn bộ tài sản nầy từ Saigòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam - được đem đi đâu? - Không ai biết.         
Thông thường - những của cãi nầy phải được sung vào công quỷ - để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẻ. Thế nhưng - sự thật trước nhứt - là các ông đem chia chác nhau. Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN (Đọc Đất đai-Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang). Ông lớn lấy tài sản lớn. Ông nhỏ - nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không hết… đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy - vì lo sợ cái gì đó - bèn đem " bán non" những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước. Một căn nhà của một viên chức tù cãi tạo đã sang tay đến 3 đời chủ. Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu - không ngoại lệ. Những trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại - là những biện pháp vá víu. Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN.   
Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá đều bị " giải phóng" ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách: Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xả tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà chịu không nổi… phải bỏ đi), đổi tiền để vô sản hoá người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ, để vô hẻm ở, ra ngoại ô hoặc về quê… Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào "mua" nhà Saigòn với giá gần như cho không… và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Saigòn. 
Mang xe tăng T. 54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên "xẻ dọc Trường Sơn" bằng máu, nước mắt và xác chết… vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là "giải phóng" nhân dân miền Nam - nhưng sự thật khó chối cãi được - là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Saigòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau - để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi - những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc. (Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỷ là trường hợp điển hình). Như vậy hành vi nầy gọi là gì? Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh - một mình đối diện với luơng tâm thuần luơng của mình - các ông tự gọi mình đi.    
Đến thời "mở cửa" - cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương - đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá, xây cất đại công tác. Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế - những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn, no bóc ké. Nhiều công trình vừa xây cất xong đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ diển hình: Một bệnh viện gần chợ "cua" Long Hồ - quê hương của Phạm Hùng - nước vôi còn chưa ráo đã muốn sụp. Hiện đóng cửa không sử dụng được. 
Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt - là một sự thật không thể chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực - những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử. Trong khi dân chúng miền quê - nhứt là miền Nam - ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn - đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt. Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực.             
Nhà văn - bác sĩ Hoàng Chính - gọi thời kỳ sau 75 là thời "Bắc thuộc": 
- "Năm Bắc thuộc thứ 2: Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh.  
- Năm Bắc thuộc thứ 6: Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán. 
- Năm Bắc thuộc thứ 12: Trong ngục thất quê hương ấy, có những bộ xương thôi tập khóc cười. " 
Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi. 
BÔ MẶT THÔN QUÊ MIỀN NAM  
Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 32 năm dưới chế độ cọng sản. Để được trung thực - người viết ghi những điều thấy và nghe - không bình luận - tại những nơi đã đi qua. Thôn quê miền Nam - những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện. Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối. Đường sá có tu sửa phần nào. Đường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn (đường xóm Cái Nứa, Cái Chuối xã Long Mỷ, VL), xe Honda và xe đạp chạy qua được. "Cầu tre lắt lẻo", cầu khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ). Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cáibè, Cái răng) nay không còn thấy nữa. 
Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ - chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn - còn nhiều nhà lá nghèo nàn. Tương tự như vậy - dọc theo bờ sông Long Hồ - một số nhà gạch nhỏ mới cất. xen kẻ những mái lá bạc màu. Vùng Trà ốp, Trà Cú (Vĩnh Bình), chợ Thầy Phó (Vĩnh Long) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn. Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi.           
Hai bên đường xe chạy từ Mỷ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ. Nhìn chung - có một sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động cơ ồn ào, người ta chen chúc. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất hoặc thụt sâu vào trong, không còn thấy nữa. Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai hoằng, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu, vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương.     
Dưới sông - từ kinh Vỉnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang - hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau chống đở sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau. 
Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế - cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì thay đổi. Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá. Basa, cá điêu hồng v. v. ở dọc bờ sông khá dài. Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh. Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tìền và sông Hậu - người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỷ A, chèo ghe tam bản, bơi xuồng như thời trước 75 nữa. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng, được trả lời: " Đi lấy Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi! " Tôi hỏi thêm: " Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh đập. các cô gái nầy không sợ sao ông? - " Biết hết - mấy cổ biết hết, báo Tuổi trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghèo, phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông. Biết đâu gặp may. "Câu chuyện gái Việt lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan hiện không ai là không biết. 
Tờ Tuổi trẻ - số ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi - trong bài: " Nỗi đau từ những con số"- có nói đến số phận của 65.000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Đài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy: "Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang "bày hàng" để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình " Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007, viết: "Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Saigòn để dự tuyển. Các chàng rể Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái. Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng. Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện. Thậm chí - những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm". 
Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ: Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời: ' "Đó là những người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn. Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa". Tôi nhìn kỷ các cô gái nầy tuổi rất trẻ khoản chừng 18 đến 20, đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn- có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện - tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề.   
Song song với tổ chức chánh thức, còn có một tổ chức " môi giới hôn nhân lậu"- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma Cau để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục, các cô gái làm điếm, hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ. Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhãn xảy ra hằng tuần - thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh, quận 11, Sàigòn. 
Cho dù chánh thức hay lậu, hậu quả cũng gần giống nhau. Chánh thức thì có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí. Lậu thì lén lút với sự che chở của Công An. Hậu quả gần giống nhau. Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan, Đại Hàn bị ngược đãi, đánh đập tàn nhẫn - ban ngày làm nô dịch, ban đêm phục vụ tình dục rồi bán vào động mãi dâm lấy tiền gở vốn lại. (Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng) Còn lậu thì bán thẳng vào ổ điếm. Biết bao nhiêu thảm cảnh, biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loại. 
Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu, lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời! 
Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ, ngược đãi, đánh đập. nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn không? Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt?       
Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người - những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ để đuợc giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn? 
Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau: Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt, chương trình công nghiệp hóa, đô thị hoá bừa bãi, không được nghiên cứu cẩn trọng, đất đai canh tác bị thu hẹp, Dân số gia tăng. Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác. Các cô gái miền Tây quẩn bách vì không có việc làm kinh niên - cuộc sống vô vọng mịt mờ - có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ. Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75) - những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ. thang giá trị bị đảo lộn nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước. Do vậy - khi bị dồn vào đường cùng họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn. Nhưng động lực chánh là nghèo. 
NGHÈO. 
Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Đại Hàn và Đài Loan… để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không lối thoát. Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - vựa lúa nuôi sống cả nước - sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy - nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) ? Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam - thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998: ĐBSC: 37%. ĐBSH: 29% . Năm 2002: ĐBSCL: 13 %. ĐBSH: 9%. (Nhà x. b Thống kê - Hànội, trang 13 - LVB trích dẫn) Dù theo tiêu chuẩn nào: tiền tệ (tính bắng tiền hay bằng gạo) - mức sống (bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa) - ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH - bởi lẽ khi nghèo về lương thực - thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá.      
Đó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt, nghe tận nơi của người viết: Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều - cái nghèo của một nông dân, nhà dột nát. khi trời mưa lúc ban đêm, không có chỗ để nằm phải tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp, trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc… Cái nghèo của một người đi mượn tiền, muợn gạo. tới ngày hẹn không tiền trả. Cái nghèo của một thanh niên thất nghiệp, cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ, mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân. 
Tục ngữ bình dân có câu: Ít ai giàu 3 họ, khó 3 đời. - Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới. ở sông Long Hồ. Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy: nghề đi nhủi tép. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay (2007) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch. Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te. Đời ông nội - nghèo! Đời cha nghèo! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo - không đổi đời cho người nghèo thành giàu. Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác - còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền. trong khi dân số lại gia tăng quá tải. Cho nên thất nghiệp không thể tránh. Nghèo là hiện thực. Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng, viết : "Nông dân đã nghèo, đất đã kém đi, nhưng mỗi năm thêm 1 triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được? " 
MIỀN NAM - 32 NĂM DƯỚI CHẾ ĐÔ C. S. 
Kinh tế Việt Nam - trong đó có miền Nam - có chút tiến bộ - so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Đối với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt, cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài trợ các chương trình y tế, giáo dục (hiện nhiều người nghèo không có tiền đóng học phí bậc Tiểu học cho con) - các chương trình tạo công ăn việc làm, phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rổng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể. Và hiện tại - muốn phát triển công nghiệp - nhà cầm quyền địa phương - theo lệnh Đảng - mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược. Lòng dân phẩn uất, kêu la than khóc. Oán hận ngút trời xanh! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàigòn). Như vậy có gọi là phát triển không?

Vụ tham nhũng RBA: có phần của Bộ Công An CSVN




Cuộc điều tra vụ tham nhũng RBA của cảnh sát Úc ngày càng có thêm nhiều thông tin và tiến triển mới. Sau khi bắt giữ 2 kẻ môi giới tại Mã Lai, thì hôm thứ Sáu 1/07 cảnh sát liên bang Úc đã bắt giữ sáu quan chức nắm giữ 3 chức danh quan trọng là Tổng Giám Đốc điều hành, Tổng quản Tài chánh và Tổng quản Thương Mại-Tiếp thị của hai công ty Securency và Note Printing Australia (NPA). Hai ngày sau tại Đức, theo lời yêu cầu của Úc, cảnh sát Đức đã bắt giữ một cựu giám đốc thương mại của NPA là Christian Boilott.

Đây là một loạt các hoạt động điều tra toàn cầu mà cảnh sát liên bang Úc đang tiến hành trong vụ án tham nhũng của kỹ nghệ in tiền nhựa Polymer của Úc.

Gần đây ngoài việc nêu đích danh quan chức Việt Nam cao cấp có liên đới là cựu thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam Lê Đức Thúy thì báo chí Úc cũng đã nêu rõ lai lịch của tay môi giới Lương Ngọc Anh.

Lương Ngọc Anh không chỉ đơn thuần là cựu tổng giám đốc của CFTD, mà thật ra là một đại tá (chuyên ngành tình báo?) của bộ công an. Các tài liệu nội bộ của cơ quan thương mại Austrade đã cho thấy Đại tá Lương Ngọc Anh là "người có mối quan hệ họ hàng trong nhiều cơ quan của chính phủ", trong khi bố của anh ta có nhiều mối quan hệ sâu rộng và bố vợ là Bộ trưởng bộ công an Lê Hồng Anh.

Để cho thấy tầm quan trọng của tay môi giới này, các tài liệu của Úc cho biết cơ quan Austrade và nhân viên ngoại giao đoàn Úc tại Hà Nội đã có nhiều buổi gặp gỡ và tiếp xúc với anh ta. Chỉ riêng khoảng từ 1999 đến 2001 đã có 18 buổi tiếp xúc như vậy. Mọi sự việc liên quan đến nhân vật này đều đặc biệt và hơn hẳn các nhân vật môi giới tại những nước khác. Khác với những con số được đưa ra trước đây, nay báo chí Úc cho biết số tiền được trả trung gian qua tay Đại tá Lương Ngọc Anh là $20 triệu đô. Đây là số tiền được cho là lớn nhất trong tất cả các số tiền mà Securency đã chi trả cho các quan chức ngân hàng nước ngoài. Con số $20 triệu đô trên tổng giá trị hợp đồng $125 triệu đô cũng là món "lại quả" đậm nhất, hơn hẳn con số 10% mà trước đây ai ai cũng nghĩ rằng đó là "thông lệ". Trước đây khi nói về việc "lại quả" đậm cho Lương Ngọc Anh và các quan chức Việt Nam, nhà báo Bill Hayton (BBC) từng giải thích rằng "vì mối quan hệ (của Lương Ngọc Anh) thuộc loại… cao cấp mà có lẽ các mối làm ăn khác không thể bì được".

Đại tá Lương Ngọc Anh cũng hưởng khoảng 20-30% của số tiền "huê hồng" này, tức là khoảng $5triệu đô. Chắc chắn một mình anh ta không thể ẳm hết số tiền này được. Vậy còn lại khoảng $15 triệu đô đã đi về đâu? Nhất định là có phần của cha con Lê Đức Thúy - Lê Đức Minh.

Một cựu nhân viên của Securency có ghi lại trong cuốn sổ tay của mình mẫu đối thoại với Đại tá Lương Ngọc Anh trong một buổi thảo luận là "Ông Thống đốc Ngân hàng sẽ vui hơn nữa nếu quý vị chịu chi (trả) thêm tiền huê hồng".

Securency đã ưu ái, tiếp đón hậu hĩnh để làm vui lòng ông Thống đốc cũng như các quan chức ngân hàng trong những chuyến đến Úc. Đôi khi những nhân viên PR của Securency được yêu cầu giúp tìm kiếm "mấy em chân dài người Á Châu" cho các vị Thống đốc và Phó thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam. Một nhân viên nam của Securency còn kể lại lời yêu cầu của cấp trên: "Lần tới khi vị khách này đến đây thì tôi cần anh giúp tìm cho ông ta một nữ bảo vệ (vừa nói vừa nháy mắt ra hiệu), loại bảo vệ đặc biệt ấy mà,… anh hiểu chứ. Phải là người Á Châu nhé".

Trong số những kẻ được chia chác, thì phải kể đến một số cổ đông của CFTD như Đỗ Minh Thương, một chuyên viên cao cấp của hai Bộ Ngoại Giao và Bộ Công Thương, và cũng là đại diện của Việt Nam tại một cơ quan của Liên Hiệp Quốc. Đi xa hơn nữa, chắc chắn phải có phần của bố Lương Ngọc Anh và ông bộ trưởng công an, bố vợ của anh ta và nhiều quan chức cao cấp khác nữa. 

Hồ sơ điều tra cũng cho biết vào năm 2007 Securency đã chi tiền để nhờ người môi giới và một số cán bộ ngân hàng của Việt Nam bay sang tận Venezuela giúp thuyết phục quan chức ngân hàng nước này chuyển đổi tiền giấy sang tiền nhựa Polymer. Điều này lại trùng hợp với chuyến đi của phái đoàn TBT Nông Đức Mạnh đến thủ đô Caracas của Venezuela vào ngày 30/05/2007 để hội kiến với Tổng thống, Chủ tịch Quốc hội của Venezuela và nhiều quan chức, thành viên trong chính phủ. Hơn một năm sau đó, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng dẫn một phái đoàn sang Venezuela vào ngày 19/11/2008.

Cơ quan đóng vai trò đắc lực trong việc giới thiệu Securency với môi giới tại các quốc gia là cơ quan đại diện thương mại Úc Austrade. Trường hợp của đại diện trưởng AusTrade tại Nam Mỹ và Việt Nam là một điển hình. Tuy cho đến nay chưa có đại diện trưởng nào của AusTrade bị bắt, nhưng hầu hết các cựu đại diện trưởng của AusTrade tại Việt Nam đều được cảnh sát Úc thẩm vấn. Được biết, trong số các đại diện trưởng của AusTrade tại Việt Nam trước đây có bà Lê Vi, một phụ nữ Úc gốc Việt (nhiệm kỳ 6/1996 – 7/1999). Bà cũng là phu nhân của Pete Peterson, cựu đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam (1997 – 2001).

Mối quen biết giữa Đại tá Lương Ngọc Anh với cơ quan AusTrade kéo dài hơn 10 năm kể từ năm 1998. Từ năm 2002, Ngọc Anh và công ty CFTD của hắn chính thức trở thành môi giới cho Securency. Vào tháng 11 năm 1999, hắn được cơ quan này mời sang Úc tham dự một buổi hội thảo về thị trường Việt Nam. Ngoài ra hắn còn là khách quý của Tòa Đại sứ Úc tại nhiều buổi chiêu đãi. Chưa hết, vào tháng 8 năm 2008, Lương Ngọc Anh còn được AusTrade mời làm thành viên trong kỳ họp thường niên của phái đoàn Ủy ban Hỗn hợp về Hợp tác Thương mại và Kinh tế Úc - Việt (JTEC), mặc dầu chỉ trước đó mấy tháng vị đại diện trưởng của AusTrade đã cảnh báo về sự liên hệ của Lương Ngọc Anh với Bộ Công an. Thậm chí ngay sau khi báo The Age lên tiếng về vụ bê bối tại Securency vào tháng 5 năm 2009, Đại tá Anh vẫn còn tiếp tục gặp gỡ với các quan chức ngoại giao của Tòa Đại Sứ Úc đến 2 lần.

Sự liên can của Bộ Công an CSVN thông qua Đại tá Lương Ngọc Anh trong việc môi giới cho Securency in tiền nhựa Polymer đã quá rõ ràng.

Trong một diễn biến khác, khi đánh dấu tròn 1 năm ngày hai nhân viên của hãng hàng không Qantas trở về từ "địa ngục Việt Nam" sau khi bị giam lỏng hơn 6 tháng để "phục vụ điều tra", báo Herald đã nhắc lại vụ việc này với nhiều chi tiết chưa hề được tiết lộ trước đây.

Trong số hôm nay, báo Herald cho biết đã tiếp cận được 18 bức điện đánh đi từ Việt Nam liên quan đến chi tiết các cuộc thương lượng để giải thoát cho hai nhân viên Qantas. Trong số này có 12 bức điện thuộc loại "nhạy cảm" có nhiều chi tiết liên quan đến việc thương lượng mặc cả, được hãng Qantas yêu cầu Bộ Ngoại Giao Úc giữ kín, vì không muốn ảnh hưởng đến mối quan hệ với đối tác Việt Nam, trong khi 6 bức điện còn lại cũng được kiểm duyệt gắt gao. Bộ Ngoại Giao cũng quan ngại việc tiết lộ những chi tiết này sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ với Việt Nam. Chi tiết "nhạy cảm" mà Qantas muốn dấu nhẹm là số tiền to lớn phải chung chi cho Bộ công an để đổi lấy sự tự do cho hai nhân viên của hãng.

Chi tiết duy nhất được tiết lộ là cuộc điều tra và thương lượng cũng như tuyên bố trả tự do cho hai nhân viên Qantas đều do Thiếu tướng công an Trần Trung Dũng cục trưởng Cục An ninh điều tra (A92) cầm đầu, cùng với một đại tá công an của cục này.

Nhắc thêm vụ việc này để chúng ta thấy được quyền lực và sự can dự sâu rộng của Bộ Công an trong các vụ việc có liên quan đến tài chánh, tiền bạc.

Sydney, ngày 4/07/2011
Lê Minh

Mưa lớn, TP Cần Thơ ngập sâu nhiều nơi


Cơn mưa lớn chiều 5.7 kéo dài gần 2 giờ đã gây ngập nhiều tuyến đường chính tại Q.Ninh Kiều (TP Cần Thơ - ảnh). Đại lộ Hòa Bình và các tuyến đường 30.4, Trần Văn Hoài, Phan Đình Phùng, Châu Văn Liêm, Nguyễn An Ninh, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Lý Tự Trọng, Lê Lai, Trần Văn Khéo, Trần Hưng Đạo, Hùng Vương… nhiều nơi ngập sâu gần 1m. Rất nhiều xe gắn máy, ô tô bị chết máy trên đường.

Tin, ảnh: Quang Minh Nhật

Bánh trung thu “3 năm không hỏng”


Bánh trung thu Trung Quốc để 3 năm vẫn không bị hỏng, không đổi màu mà chính người sản xuất cũng không rõ nguyên nhân.
 

Chiếc bánh trung thu được cho là để 3 năm vẫn không hỏng - Ảnh: Báo Trùng Khánh Buổi tối

"Mãi không biến chất"

Hôm qua, báo Trùng Khánh Buổi tối của Trung Quốc đăng bài về vụ bánh trung thu để quên 3 năm ở góc nhà trong điều kiện nhiệt độ bình thường nhưng vẫn không hỏng. Khi cắt ra, nhân bánh vẫn tươi ngon như vừa mua về, trông không hề biến màu hoặc chảy nước. Bà Trần, sống ở khu Cửu Long, thành phố Trùng Khánh, hoảng sợ kể cho phóng viên rằng bà mua chỗ bánh đó từ năm 2008 nhưng do được tặng nhiều bánh quá nên ăn không hết và quên luôn. Theo bà Trần, số bánh này có ghi thời hạn sử dụng chưa tới 2 tháng. Thời tiết ở Trùng Khánh có 4 mùa rõ rệt, bánh lại được bảo quản trong điều kiện thường nhưng "không hề biến chất". "Chuyện này quá kỳ quái. Từ nay về sau, ai dám ăn bánh trung thu nữa chứ? Chắc chắn là bánh đã được ướp tẩm rất nhiều hóa chất", tờ báo dẫn lời bà Trần nói.

Phóng viên Trùng Khánh Buổi tối cũng tận mắt kiểm chứng bánh trung thu do bà Trần cung cấp. Trên bao bì ghi rõ ngày sản xuất là ngày 2.9.2008, do Công ty TNHH thực phẩm Gia Sĩ Đức Trùng Khánh sản xuất, thời hạn sử dụng trong 50 ngày. Quan sát bên ngoài, tờ báo cho biết bánh có màu vàng ruộm, không hề có gì khác lạ. Theo ghi chú ngoài bao bì thì các thành phần của bánh là: nhân vị dứa, bột lúa mì, nước đường, bơ, nước thơm, bột kết tinh không màu (Potassium sorbate), dịch kết tinh không màu không mùi dehydrogenation (Sodium acetate trihydrate), trứng gà… Trong đó bột kết tinh không màu và dịch kết tinh chính là hai hóa chất chống thối rữa.

Nhà sản xuất lấp liếm

Khi phóng viên báo Trùng Khánh Buổi tối tìm tới Công ty Gia Sĩ Đức Trùng Khánh thì giám đốc họ Hùng của cơ sở này phủ nhận sự việc trên. Bà Hùng tuyên bố từ xưa tới nay chưa hề gặp trường hợp lạ như vậy. Số hàng mẫu được giữ lại trong xưởng cũng chỉ để được tới một năm. "Ở nhiệt độ thông thường và nếu bảo quản tốt, bánh trung thu có thể để được tới một năm", bà này thanh minh. Bà Hùng thừa nhận xưởng sản xuất có sử dụng chất chống thối rữa thực phẩm nhưng khẳng định hàm lượng vẫn nằm trong quy định của nhà chức trách. Tuy nhiên bà không thể giải thích được tại sao bánh của xưởng để suốt 3 năm mà không hỏng.

Ông Lưu Sùng Hoa, Hội phó Hội Liên hiệp doanh nghiệp Trùng Khánh và là một chuyên gia về bánh nướng thì nói sau khi xử lý tốt mọi khâu kỹ thuật, bánh trung thu có thể bảo quản được một thời gian dài với điều kiện: bao bì nguyên vẹn, không nứt, thủng để lọt gió, bánh hoàn toàn nằm trong môi trường cách ly. Mặt khác trong khâu sản xuất, vệ sinh của công nhân… phải được thực hiện tốt, tuyệt đối không được nhiễm khuẩn. Ông Lưu cũng rất ngạc nhiên về trường hợp bánh trung thu "không biến chất" nói trên. Đến nay, các chuyên gia vẫn chưa thể tìm ra nguyên nhân hiện tượng lạ này.

Việt Nam hằng năm nhập không ít bánh trung thu từ Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan do mẫu mã đẹp, nhiều loại mùi vị; đặc biệt nhiều loại bánh đắt tiền, sang trọng rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tranh cãi về công nghệ sản xuất bánh trung thu ở Trung Quốc và nhiều nước như Canada, Úc, New Zealand… đã cấm nhập bánh trung thu từ nước này.

Kiểm tra thật sát bánh trung thu nhập khẩu

Theo ông Huỳnh Lê Thái Hòa, Chi cục trưởng Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) TP.HCM, theo thủ tục quy định trình tự đối với các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu (trong đó có bánh trung thu), thì: khi hàng về đến cảng, công ty phải đi đăng ký với cơ quan chức năng, và Bộ Y tế sẽ chỉ đạo một cơ quan trực thuộc Bộ tiến hành lấy mẫu để kiểm nghiệm, nếu kết quả xét nghiệm đạt chất lượng thì sản phẩm sẽ được thông quan. Sau khi thông quan, để được lưu thông trên thị trường, công ty, doanh nghiệp phải đến công bố tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm tại Cục ATVSTP (Bộ Y tế).

Trước thông tin về bánh Trung thu tại Trung Quốc "để 3 năm nhìn vẫn đẹp", một chuyên gia về ATVSTP của Sở Y tế TP.HCM cho biết: "Thông thường các cơ sở sản xuất bánh trung thu trong nước đăng ký hạn sử dụng (HSD) của bánh từ 10 ngày, 20 ngày, 30 ngày, 60 ngày và 90 ngày. Các cơ sở sản xuất tự đưa ra HSD, và phải tự chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm trong thời HSD". Chi cục ATVSTP TP cho biết, trung thu tới đây, chi cục sẽ phối hợp cùng Thanh tra Sở Y tế sẽ kiểm tra thật sát đối với những mặt hàng bánh trung thu nhập khẩu, nhất là hàng có xuất xứ từ Trung Quốc.

Thanh Tùng

Nguyễn Lệ Chi