THÔNG BÁO !

Trang blog diễn đàn đã được dời sang địa chỉ mới http://ptlambao.blogspot.com/ . Vui lòng vào đây để theo dõi tin tức mới và tiện việc ủng hộ. Trang này sẽ lưu giữ những thông tin cũ . Xin cả ơn sự ủng hộ của mọi người

TM Ban Điều Hành Blog

12 January 2012

Vụ nổ súng ở Tiên Lãng có dấu hiệu cưỡng chế... nhầm

“Tôi không biết chính xác ngôi nhà anh Đoàn Văn Quý sử dụng có nằm trong diện tích cưỡng chế hay không”. Chủ tịch UBND xã Vinh Quang Lê Thanh Liêm (em ruột Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng Lê Văn Hiền) cho biết như vậy khi được đề nghị cung cấp thêm thông tin về vụ đặt mìn, nổ súng chống cưỡng chế làm 6 công an, bộ đội bị thương, hôm 5.1.
 


 
Năm 1993, ông Quý được UBND huyện Tiên Lãng giao 21 ha đất lấn biển làm diện tích nuôi trồng thủy sản. Tới năm 1997, ông Vươn tiếp tục lấn biển được 19,3 ha đất, và được huyện ra quyết định mới giao thêm khu đất này. Với lý do hết thời hạn sử dụng đất, năm 2008, UBND huyện Tiên Lãng đã ban hành quyết định 460/QĐ- UB (QĐ 460) thu hồi 21 ha. Đến năm 2009, huyện ra thêm QĐ 461, thu hồi tiếp 19,3 ha đầm còn lại của gia ông Vươn.

Trong quá trình giải quyết khiếu nại tố cáo, UBND huyện Tiên Lãng chỉ giải quyết khiếu nại đối với QĐ 461. Vì thế, ông Vươn chưa thể hiếu nại hoặc khởi kiện ra tòa đối với QĐ 460 về việc thu hồi 21 ha. Trên cơ sở giải quyết QĐ 461, thu hồi 19,3 ha của UBND huyện Tiên Lãng, ông Vươn mới khởi kiện ra tòa. Dựa trên “Thỏa thuận” ngày 9.4.2010 nói trên, ông Vươn có đơn xin rút kháng cáo.

Vì thế, căn cứ vào phán quyết của cấp sơ thẩm, ngày 24.11.2011, Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng Lê Văn Hiền ký QĐ 3307/QĐ- UBND cưỡng chế thu hồi đất theo QĐ 461, thu hồi 19,3 ha đất giao ông Vươn sử dụng. Tại văn bản gửi UBND, Thành ủy TP.Hải Phòng ngày 7.1.2012, UBND huyện Tiên Lãng cũng vẫn chỉ báo cáo: “… UBND huyện Tiên Lãng đều yêu cầu ông Đoàn Văn Vươn thực hiện QĐ số 461/QĐ-UBND ngày 7.4.2009 về việc thu hồi diện tích đất giao nuôi trồng thủy sản đã hết thời hạn sử dụng”. Như vậy, bên cạnh việc chưa giải quyết việc khiếu nại đối với QĐ 460 về việc thu hồi đất 21 ha đất của ông Vươn thì UBND Tiên Lãng cũng chưa có QĐ cưỡng chế đối với khu đất này. Nhưng khi thực hiện, vẫn báo cáo ngày 7.1 khẳng định UBND huyện Tiên Lãng làm các thủ tục để thu hồi cả 40,3 ha đầm do gia đình anh Đoàn Văn Vươn đang sử dụng.

Tại họp báo chiều 5.1, ông Lê Văn Hiền đã tái khẳng định: UBND huyện Tiên Lãng tổ chức thu hồi cả 40,3 ha đầm nuôi trồng thủy sản của ông Vươn.

Vậy UBND huyện Tiên Lãng đã cưỡng chế thu hồi 19,3 ha hay cả 40,3 ha? Trong ghi nhận của tổ công tác cưỡng chế huyện Tiên Lãng, ngày 5.1, tổ công tác đã tiến hành đập bỏ ngôi nhà gia đình ông Đoàn Văn Quý (em trai ông Vươn) đang sở hữu trên diện tích khu đất đầm 21 ha chưa có QĐ cưỡng chế! http://baodatviet.vn/Home/phapluat/Vu-no-sung-o-Tien-Lang-Co-dau-hieu-cuong-che-nham/20121/187479.datviet

Chị Hiền cho biết ngày 5-1, UBND huyện Tiên Lãng thực hiện cưỡng chế thu hồi 19,3 ha đầm theo quyết định do Chủ tịch huyện Lê Văn Hiền ký ngày 24-11-2011. Quyết định này không nêu việc cưỡng chế thu hồi 21 ha đất còn lại trong khu đầm được huyện giao cho ông Vươn từ năm 1993. Thế nhưng căn nhà hai tầng của vợ chồng chị xây dựng trên phần đất 21 ha chưa trong diện bị cưỡng chế thu hồi đất cũng đã bị đập bỏ.

Dư luận đặt nghi vấn phải chăng việc cưỡng chế đã vượt ranh giới trong quyết định cưỡng chế của huyện? Ông Lê Thanh Liêm, Chủ tịch UBND xã Vinh Quang, cho biết sau vụ cưỡng chế, xã đã quản lý khu đầm. Khi được hỏi căn nhà bị sập có phải nằm ở diện tích 21 ha không, ông Liêm nói: “Có thể vị trí nhà bị sập nằm trong phần diện tích 21 ha chưa bị cưỡng chế nhưng đây là địa điểm xảy ra vụ án. Gia đình ông Vươn vẫn có thể vào khu vực chưa bị cưỡng chế”: 
 

Quyết định thu hồi đất ở Hải Phòng là trái luật

Thứ năm, 12/1/2012, 20:04 GMT+7

Nguyên Thứ trưởng Tài nguyên Môi trường Đặng Hùng Võ khẳng định, quyết định thu hồi đất của UBND huyện Tiên Lãng (Hải Phòng) với gia đình đình ông Vươn vừa trái luật vừa trái đạo lý, cố tình tước bỏ quyền lợi của người dân.
Mâu thuẫn dẫn đến nổ súng chống đối ở Hải PhòngGóc nhìn đối lập về chủ đầm tôm bị cưỡng chế

- Dưới góc độ pháp lý, ông nhìn nhận thế nào về quyết định giao đất và thu hồi đất của UBND huyện Tiên Lãng (Hải Phòng) đối với gia đình ông Đoàn Văn Vươn?
- Việc giao đất của UBND huyện Tiên Lãng là không đúng pháp luật. Cụ thể, thời gian hạn chế giao đất 14 năm là không đúng, mà phải là 20 năm và sau 20 năm vẫn tiếp tục được sử dụng nếu Nhà nước không có quyết định thu hồi đất. Huyện Tiên Lãng có những quyết định giao tới 20 ha, trong khi theo khung giao đất bãi bồi ven sông ven biển ở Quyết định 773 của Thủ tướng, diện tích tối đa là 10ha.
Việc ban hành Quyết định thu hồi đất của UBND huyện Tiên Lãng cũng trái pháp luật. Khi giao bãi bồi ven sông, ven biển cho hộ gia đình cải tạo trở thành nơi nuôi trồng thủy sản thì công sức, mồ hôi của người dân đã đổ xuống trong quá trình lao động. Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi hết thời hạn sử dụng đất (của gia đình ông Vươn sớm nhất là 15/10/2013), đương nhiên được kéo dài sang thời hạn tiếp theo trừ những trường hợp bị Nhà nước thu hồi đất. Quốc hội sẽ xem xét quyết định vấn đề "hết thời hạn" này khi thông qua Luật đất đai mới trước năm 2013.
- Ông nghĩ sao trước khẳng định của Chánh văn phòng UBND huyện Tiên Lãng rằng huyện không làm sai khi cưỡng chế thu hồi đất của dân?
- Nhiều cán bộ quản lý ở nhiều địa phương hay nói câu buông sõng: "Nhà nước thì thu hồi đất nào cũng được". Đó là cái nhầm lẫn rất cơ bản. Nhà nước cũng phải thu hồi đất theo quy định của pháp luật. Chiểu theo pháp luật hiện hành về thời hạn sử dụng đất, chắc chắn là họ sai. Chiểu theo quy định về giải quyết thế nào khi đất nuôi trồng thủy sản hết thời hạn, chắc chắn họ cũng sai.

Giáo sư Đặng Hùng Võ - nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường.
Giáo sư Đặng Hùng Võ - nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường. Ảnh: Tiến Dũng

- Với kinh nghiệm nhiều năm làm công tác đất đai, theo ông việc thu hồi đất của huyện Tiên Lãng là do thiếu kiến thức pháp luật hay nguyên nhân nào khác?

- Trong vụ việc này, tòa yêu cầu hai bên thương thảo giải quyết, UBND huyện hứa sẽ tiếp tục giao đất nên người dân rút đơn. Các hộ dân thực hiện nhưng địa phương lại không giữ lời. Trong đơn gửi tòa, người dân nói ông Chủ tịch huyện khăng khăng không thực hiện cam kết.
Người dân đang sử dụng đất có hiệu quả thì không có lý do gì để thu hồi đất của người ta. Điều này thể hiện có cái gì lẩn khuất phía sau các quyết định thu hồi đất. UBND huyện Tiên Lãng cố tình tước bỏ quyền lợi của người dân trong khi hai bên đã thỏa thuận giải quyết thỏa đáng. Ở đây, nguy cơ là chính quyền có thể thấy vùng đất đó sau khi được cải tạo là quá màu mỡ và muốn chuyển đổi cho đối tượng khác.
Còn nếu đất được dùng vào dự án khác thì ngay trong quyết định thu hồi cũng phải nói đến chuyện bồi thường. Nhưng quyết định của UBND huyện Tiên Lãng không hề nói đến chuyện bồi thường mà thậm chí còn bắt người dân phải bàn giao toàn bộ mặt bằng kèm theo những công sức của dân cải tạo trước đây. Điều này không chỉ sai luật mà còn trái cả đạo lý.
- Để xảy ra vụ việc ngày 5/1, ngoài việc xử lý nghiêm những người nổ súng chống đối, theo ông, cần xem xét trách nhiệm của chính quyền địa phương thế nào?
- Hiện nay ít nhất 70% khiếu kiện của người dân liên quan đến đất đai. Người nông dân nghĩ rất giản đơn, nhiều khi không nghĩ hết nhẽ, hành động bột phát, thiếu kiềm chế. Do đó, chúng ta phải trân trọng công sức của người nông dân, không phải vì thấy cái lợi của việc thu hồi mà lấy đi công sức của họ, đẩy họ vào bước đường cùng để trở thành tội phạm, phải chống trả bằng việc vi phạm pháp luật hình sự. Từ vụ việc này có rất nhiều điều để nói và UBND TP Hải Phòng cũng không thể đứng ngoài cuộc

Lực lưỡng cưỡng chế gồm cả trăm cảnh sát được trang bị vũ khí ập vào khu vực cưỡng chế.
Ngày 5/1 trở thành tồi tệ nhất trong lịch sử cưỡng chế tại Hải Phòng với 6 cảnh sát, bộ đội bị bắn trọng thương.

- Theo ông, cần rút ra bài học gì trong công tác quản lý, thu hồi đất đai sau vụ việc ở Tiên Lãng?
- Trong vụ Tiên Lãng, bài học lớn nhất là cơ quan quản lý, nhất là ở địa phương cần phải nghĩ rằng mình là đại diện cho quyền lợi chính đáng của người dân. Hãy đứng về cách nghĩ của dân chứ không phải cách nghĩ của một người làm lãnh đạo.
Trong tất cả trường hợp thực thi pháp luật, lãnh đạo phải hiểu rõ ngọn ngành về pháp luật, đừng hiểu sai cũng như cố tình hiểu sai. Áp dụng pháp luật không chỉ là lý mà còn là tình. Người ta đã bỏ công sức ra thì phải xem xét công lao của họ với mảnh đất đó, cần đánh giá cho đúng. Việc người ta làm từng ấy năm rồi mình thu lại, cứ cho là việc thu hồi có lý do chính đáng thì cũng phải cân nhắc có nên không? Đấy là câu chuyện mà chính quyền địa phương phải có trách nhiệm tính đến.
Hiện nay, nhiều địa phương khi thực hiện cưỡng chế thu hồi đất thường hay sử dụng lực lượng vũ trang. Điều này theo tôi không nên làm. Với dân, đừng nghĩ tới việc sử dụng sức mạnh sẽ hiệu quả hơn. Người dân đang muốn chủ động trên cơ sở lẽ phải của sự đồng thuận.
Nếu đặt mình ở vị trí lãnh đạo huyện Tiên Lãng, ông sẽ xử lý thế nào với vấn đề đất đai của gia đình ông Vươn?
- Nhiều địa phương đã đánh đồng giữa việc giao đất khai hoang và đất đã được cải tạo. Thế nên có tình trạng người dân đổ mồ hôi ra để khai hoang nhưng sau đó chính quyền lại coi đấy là đất ruộng bình thường, làm thiệt hại cho dân. Để động viên việc khai hoang, mở rộng diện tích, tôi cho rằng cần có chính sách đặc biệt hơn nữa để thừa nhận công sức của người dân, ít nhất chiếm 50% giá trị đất đai.
Vấn đề của ông Đoàn Văn Vươn theo tôi giải quyết đơn giản. Đất giao năm 1993 thì đến 2013 hết hạn, đất giao năm 1997 thì tới 2017 hết hạn. Còn về hạn mức diện tích, nếu đất giao vượt hạn mức quy định của Chính phủ, chốt diện tích 10ha của dân không phải nộp nghĩa vụ tài chính, và diện tích còn lại về nguyên tắc phải chuyển sang thuê đất. Trong tương lai, nếu Luật Đất đai bãi bỏ hạn điền thì lại cho diện tích đó trở lại như đất được Nhà nước giao.

Tiến Dũng thực hiện

NGUYỂN KHOA ĐIỀM: TÊN ĐAO PHỦ GIẤU MẶT TRONG CUỘC THẢM SÁT TẾT MẬU THÂN TẠI HUẾ?

 
Nguyễn Khoa Điềm (NKĐ),  một nhà thơ VC đã từng đảm trách một chức vụ rất lớn trong BCT Đảng CSVN, về cuối đời đã thú nhận là: “Bây giờ thì tôi chỉ còn chường mặt trong thơ!”.

Để biết Nguyễn Khoa Điềm là ai mà về cuối đời lại phải thú nhận như thế, xin mời độc giả đọc những giòng chữ sau đây được trích từ bài viết “Tên đồ tể tại Huế trong Tết Mậu Thân” của nhà văn Hồ Đinh như sau:

“… Cuộc binh biến ngày 1-11-1963 với kết quả đưa VNCH vào tình trạng vô chính phủ và gây nên những xáo trộn chính trị triền miên, suốt những năm 1964-1967. Nắm bắt được thời cơ, mà Hồ Chí Minh cho là đã chín mùi tại Miền Nam, nên đầu năm 1964, đảng ra lệnh tập trung các cán bộ y tế, giaó dục, văn hóa, thể dục thể thao, nhà văn, nhà báo, nông nghiệp, bưu điện, tiếp vận… khắp đất Bắc, để học tập, huấn luyện lên đường voà Nam, tiếp tay với bọn ăn cơm Quốc Gia thờ mà CS đang dấy lên phong trào cướp chính quyền ở Huế, Đà Nẳng, Sàigòn và những thành phố khác. Đợt đó có 300 người bị tập trung tại Trường Huấn luyện Đặc biệt ở Phú Thọ mang tên Đoàn Kết K.33.

Ngày 22-12-1964, lớp học bế mạc. Tất cả các học viên đều lên đường vào Nam. Để che mắt và lừa bịp công luận quốc tế, mọi người đều được trang bị như VC chính hiệu ở Miền Nam, với quần áo bằng vải kaki Nam Định, mũ tai bèo may bằng vải rộng vành, dép râu Bình Trị Thiên, cổ quàng khăn rằn và ai cũng thuộc bài “Giải Phóng miền Nam” của Huỳnh Minh Siêng tức Lưu Hữu Phước, lúc đó cũng đang có mặt ở Cục R ở Miền Nam.

Trong số cán bộ trên có nhiều người còn sống sót và được Đảng thuởng công rất hậu…Ngoài ra còn có các nhạc sĩ, nhà văn như Phan Huỳnh Điểu, Thuận Yến, Lê Xuân Anh, Tô Nhuận Vỹ, dược sĩ Nguyễn Kim Hùng, Tiến sĩ Võ Quảng, Nguyễn Thới Nhiệm. Nhưng chức vụ cao nhất, chỉ có Nguyễn Khoa Điềm, được vào Trung ương Đảng khoá IX năm 2001, đứng hàng thứ 5 trong Bộ Chính trị và hàng thứ 5 trong Ban bí thư Trung ương. 

Qua bài thơ “40 năm gặp lại” đăng trong tờ Xuân Ất Dậu 2004 của VC Bình Thuận, NKĐ đã viết: “Những người cùng đi trên chuyến tàu lửa nagỳ ấy qua khu Bốn, qua sông Xê Bay-Hiên, đường 9 nhìn thấy đêm Noel trong một chớp sáng. Vân chúng ta chia tay nhau ở Xê-Phôn. Tôi rẽ theo vĩ tuyến…” Lời thơ đã xác nhận, từ cuối năm 1964, khi vào Nam, NKĐ đã được chỉ định hoạt động tại các miền hỏa tuyến, thuộc VI Chiến thuật của VNCH  trong đó có Thừa Thiên-Huế, là quê hương của đương sự, trước khi tập kết ra Bắc.

Nhưng tại sao trong bài viết “Một cõi đi về” của Lê Dục Đức, đăng trong tờ Kiến Thức Ngày Nay số 266 – 10-12-1997, xuất bản tại Thuận Hải, có kê khai danh sách những hung thần VC, nằm vùng tại Đại học Huế từ 1963-1966 như Trần Quang Long, Ngô Kha, Phan Duy Nhân, Lê Thanh Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Minh Tường, Trần Vàng Sao… lại không hề đề cập đến NKĐ. Ngược lại trong bài viết của NKĐ, cũng chẳng hề nhắctới Trần Vàng Sao và Tô Nhuận Vỹ.

Trong lúc đó, trên Mạng Lưới Dân Chủ, ngày 14-11-2005, có phổ biến bài viết liên quan tới “Vụ án TC.2” của Đinh Văn Toàn, phần mở đầu, toà soạn có ghi chú về sự liên hệ của 3 nhận vật xứ Huế, cùng tập kết, hồi kết và vào nằm vùng trong Viện Đại học Huế. Đó là NKĐ, Nguyễn Đính và Tô Nhuận Vỹ.

Ngoài ra báo chí nào của VC khi nhắc tới những năm lạn lạc ở Huế từ 1965-66, đều nhắc tới Trần Vàng Sao, mà chú thích của Mạng Lưới Dân Chủ, nói là bí danh của Nguyễn Đính, lại không hề nhắc tới hoạt động của NKĐ, dù rằng hắn từ cuối năm 1964 đã về haọt động, trà trộn trong Đại học Huế. Lạ m65t điều là Điềm cũng nín thinh như hến, chẳng bao giờ tiết lộ một lời về những ngaỳ haọt động của mình tại miền Nam tù 1964-1975….

… Mấy năm nay, nhờ theo phe cánh thân Trung Cộng tại Bắc Bộ phủ như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Trần Đình Hoàn, Nguyễn Văn An… nên NKĐ được đồng bọn cất nhắc lên  rất mau và được giao giữ chức Trưởng Ban Văn Hoá Tư Tưởng với trọng trách tận diệt những kẻ dám chống lại đảng đang bán nước cho Tàu…

“Bây giờ mùa mưa đã qua
Giọt nước đầu tiên đặc quánh
Bây giờ bạn đang quay lưng
Chén trà một chân đóng cặn
Anh là kẻ phải đánh trận sau cùng
Kẻ được xé vé cuối cùng trong rạp hát
Sự may mắn của anh dính dáng ít nhiều tới những rễ cây” (thơ NKĐ)

Thơ  là người, thơ đã thay Điềm nói lên chân tướng của mình, nhất là dưới áp lực của mọi phía về cái gọi là “Vụ án siêu nghiêm trọng T4”, có liên hệ tới 11 Ủy viên BCT, trong số có NKĐ cần đưa ra xét xử trước khi họp Đại hội X – như những lời thơ trên khẳng định, “Sự may mắn của Anh dính dáng nhiều tới rễ cây”.

Như vậy ai là kẻ chống lưng cho Điềm? Ai đã bứng NKĐ ra khỏi BCT khi VC vẫn đang làm tôi tớ cho Tàu?”

Bài viết của tác giả Hồ Đinh có ý ám chỉ NKĐ là người giấu mặt trong thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế. Chúng tôi xin nêu lên như một tồn nghi.
*
Mới đây, trả lời phỏng vấn của báo Lao Động, NKĐ đã phát biểu như sau:

“Việt Nam đã bị mất mát nhiều về văn hóa do bị chiến tranh, nhưng cũng chính do chúng ta làm mất. Khi đã thiếu văn hóa, con người ta rất dễ làm điều xằng bậy. Tôi thâấ, bây giờ trong ứng xử với nhau, cái gì mà con người ta có thể bày tỏ thái độ là họ bày tỏ rất thô bạn… Người ta không thích và ngại tiếp xúc với chính quyền, bởi “những người đầy tớ của dân” luôn vòi vĩnh, lạnh nhạt với dân. Đó là sự biểu hiện của một sự xuống cấp về văn hóa giao tiếp, văn hóa hành chính, ứng xử. Với một guồng máy như vậy thì làm sao đất nước phát triển khi thiếu sự tin cậy giữa chính quyền với người dân. Hiện dân chỉ đối phó với chính quyền. Tôi không rõ chúng ta điều chỉnh vấn đề này như thế nào?

… Tôi thường nói với một vài anh em, hiện tại tôi như gái đã có chồng. Mà chồng thì chỉ một thôi. Tức là dù chồng có chết đi rồi, thì tôi cũng chỉ một chồng chứ không tái giá hay léng phéng tìm đối tác. Tôi sống với xã hội này cũng như vậy. Tôi biết mình đã gắn bó, đã được nuôi dưỡng từ trong máu thịt với hệ thống xã hội, với chế độ này. Tôi luôn gắn bó một lòng, nhưng không hẳn những suy nghĩ của tôi hôm nay tôi cũng phải suy nghĩ như hôm qua cả. Tôi phải có những suy nghĩ mới của tôi về tất cả mọi chuyện.

Bây giờ thì tôi chỉ còn chường mặt  trong thơ. Thơ thì phải cứ thật lòng mình, không thể giấu mình, không thể nói dối”.

*
Đây không phải là một bài viết tranh luận về chuyện “thơ thì phải cứ thật lòng mình, không thể giấu mình, không thể nói dối” – như nhà thơ cung đình Nguyễn Khoa Điềm đã bốc phét!

Mọi người đều biết nhà thơ Lưu Trọng Lư đã làm nhiều người rung động qua những câu thơ:

“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô…”

Đến, nay thì không ai tin những câu thơ Lưu Trọng Lư viết:
“… Ngủ rồi ngủ rồi những đau buồn đêm trước
Lá vàng không lạnh lá vàng rơi
Và nai vàng không ngơ ngác nữa em ơi…”
là “thật lòng mình”.

Cũng như đến nay, mọi người đều cảm thấy thương hại Xuân Diệu đã “lột xác” chứng tỏ lập trường bằng cách “đốt đuốc thiêu thơ mình” qua các bài thơ:

“Mỗi lần tranh đấu gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm.
Nghe lời Bác dạy khuyên răn,
Chúng con ước muốn theo chân của người…
Chúng con thề nguyện một lời:
Quyết tâm thành khẩn: Lột người từ đây!”
“Tôi cùng xương cùng thịt với NHÂN DÂN tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi nước mắt…”   

Và chính “tiền bối” của Nguyễn Khoa Điềm là Tố Hữu, đệ nhất cao thủ nịnh bơ của chế độ VC cũng đã thú nhận là ông ta chỉ tưởng tượng, bốc phét khi làm bài thơ  ca tụng trận đánh Điện Biên Phủ.

*
Hình như những kẻ làm ác về cuối đời thường tìm cách chạy tội cho mình. Như truờng hợp ông “Tiến sĩ Bác Hồ” Cao Huy Thuần chạy tội cho “thầy” của mình là Hòa thượng Trí Quang.

Hoàng Phủ Ngạc Tường, Nguyễn Đắc Xuân tìm mọi cách chạy tội trong cuộc thảm sát Huế Tết Mậu Thân.

Và, bây giờ, tới phiên “tên đao phủ giấu mặt” Nguyễn Khoa Điềm đang tìm mọi cách để chạy tội?!

Phải chăng con chim  sắp chết thường hót tiếng bi ai. Và người sắp chết thường nói lời chân thật!?

LÃO MÓC

Đoàn Văn Vươn – Hành trình vượt bão cô độc, đớn đau

NGUYỄN VIỆT ANH

 
Mấy ngày nay, dân tình khắp nơi bàn tán xôn xao về vụ việc anh Đoàn Văn Vươn, một nông dân thuần phác xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng “cảgan” chống lại lực lượng hùng hậu của chính quyền trong vụ cưỡng chế ngày 5.1 tại chính cánh đồng rộng trên 41 ha mà anh cùng đại gia đình đã dày công vun đắp… Vì sao thì tôi xin phép không được bàn tới, song chỉ muốn nêu lên một số ý kiến nghĩ suy của mình về sự việc này – việc mà tôi cảm thấy trăn trở vì biết mà không làm được gì và cũng chưa bao giờ, tôi thấy mình bất lực đến như thế.

Trong một ngày cuối tháng 12/2011, chính xác là ngày 27, tôi nhận được lá đơn của anh Vươn với con dấu đỏ và chữ ký của anh với tư cách là Chủ tịch Liên chi hội NTTS Nước lợ huyện Tiên Lãng, thuộc Thành hộinghề cá Hải Phòng. Tôi xin mạn phép được trích đăng: “Tại công văn số 01 ngày 30/1/2011, chúng tôi đã khẳng định Quyết định cưỡng chế của UBND huyện Tiên Lãng với 2 hội viên của chúng tôi là bất hợp pháp, vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội nghiêm trọng, thể hiện ở chỗ: Đại diện cho cả một chính quyền huyện Tiên Lãng đi ký thoả thuận với người dân để giải quyết vụ án hành chính có sự chứng kiến của TAND thành phố Hải Phòng, nay lại lật lọng thoả thuận đó, dùng bạo lực chính quyền để chiếm đoạt tài sản của công dân có tổ chức. Gần đây, chúng tôi tiếp tục nhận được thông tin 2 hội viên của chúng tôi đã có đơn khiếu nại về quyết định cưỡng chế của chủ tịch huyện Tiên Lãng. Ông Nguyễn Văn Khanh, phó Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng là trưởng đoàn cưỡng chế đầm NTTS của 2 hội viên chúng tôi đã yêu cầu ông Lê Văn Hiền (là chủ tịch huyện) phải giải quyết khiếu nại lần đầu theo điều 36, Luật khiếu nại tố cáo song ông Lê Văn Hiền đã thẳng thừng công bố Không giải quyết và cho rằng đây là thực hiện theo nghị quyết của thường vụ huyện uỷ Tiên Lãng.” Trong lá đơn khẩn thiết chứa đựng sự căm phẫn nghẹn lời, không thể tỏ bày cùng ai, anh Vươn có đề nơi nhận rất nhiều, từ Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng chính phủ, Bộ Quốc phòng…. cho đến huyện, xã và cả các hội viên của Liên chi hội NTTS nước lợ… Tuy nhiên thì “hỏi trời, trời chẳng thấu; hỏi đất, đất không hay” – Tiếng kêu cứu của anh hình như rơi tõm vào khoảng không im lặng đáng sợ.

Nhận được đơn, chưa kịp định thần thì trưa ngày 5.1, đọc Người lao động thấy sự việc đã bị đẩy đi quá xa. Tự nhiên, cổ họng tôi nghẹn đắng; suy nghĩ miên man về lý do vì sao, chính quyền Tiên Lãng nỡ làm như thế với một người vô tội, thậm chí còn dày công vun đắp cho mảnh đất đầu sóng ngọn gió như Vinh Quang nữa? Có phải chăng, bản thân anh Vươn đến giờ vẫn không có tội, anh bị rơi, bị đẩy vào tình cảnh không còn con đường nào khác là phải chiến đấu tới cùng! Dư luận mấy ngày qua, nhất là ở Tiên Lãng, người ta cảm thấy nghẹn ngào, bất bình, thương thân anh Vươn hơn là giận/ hoặc là không có giận, dù rằng việc anh đã làm là vi phạm pháp luật, là cú sốc đối với mọi người ở vùng quê nghèo vốn yên bình này.
 
Tôi không cảm tình với cá nhân ông Lê Văn Hiền, chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng này vì qua vài lần tiếp xúc, chỉ là vài lần trong một vài sự vụ thôi nhưng đủ để thấy, ông ấy chẳng ra làm sao cả! Quan liêu, cửa quyền, hách dịch… có lẽ là chưa đủ để nói về ông ấy… Tôi còn nhớ, khoảng hơn 1 năm trước, báo chí tốn không ít giấy mực để viết về việc cty TNHH Sơn Trường phá vỡ hợp đồng thuê đất của dân mà không có sự đền bù nào thoả đáng. Đùng một cái, chính ông Hiền, trong một buổi họp với đầy đủ ban bệ – đã là người đứng lên tuyên bố xanh rờn là sẽ dùng tiền ngân sách trả nợ thay DN. Cũng vì câu nói “bất hủ” này mà sau đó, ông Hiền bị quay rất ác trong nhiều bài báo TƯ và Hải Phòng (trong đó, Hải Phòng thì có 1,2 bài của tôi và đồng nghiệp bên báo; còn ngay tại cơ quan tôi thì vẫn có người khen nức nở). Và để sửa sai cho mình, (hình như) sau đó, ông Hiền đã thẳng tay “trảm tướng” – ông Chủ tịch UBND xã Khởi Nghĩa Nguyễn Văn Bích – một người đã khốn khổ, khốn nạn huy động tiền của khắp nơi để làm lại ruộng trả cho dân trong tình cảnh “trên đe, dưới búa” – trên là ông Hiền, dưới là dân…

Nhắc lại câu chuyện này là muốn để mọi người hiểu rằng, những điều mà UBND huyện Tiên Lãng đã làm là có “Lỗi hệ thống” và việc sửa cái lỗi này bây giờ không hề dễ, bởi nó ngoài yếu tố cá nhân, là ông Hiền thì còn cả một hệ thống chính trị liền kề với nó nữa. Nhắc lại sự việc này, những người đồng cấp, đồng sự các địa phương khác cũng chỉ cười trừ và cho rằng: Huyện Tiên Lãng đã cố tình làm sai rồi và có người còn tủm tỉm, nháy mắt cười mím chi cọp: “Hi hi, nếu là anh, anh mà làm đến như thế chỉ có là cố tình lấy cho người nhà anh thôi!”… Chẳng hiểu thực hư câu chuyện này là như thế nào…
Chủ đầm Vũ Văn Hiền (cạnh đầm ông Vươn): “Chống người thi hành công vụ là anh Vươn sai rồi. Nhưng trước đó, phải phong cho anh Vươn là người hùng mới xứng đáng”. ( Theo Nguyễn Hưng)
Tìm đọc trên các trang báo mạng, dạo này báo chí người ta đưa tin, tạo dư luận cũng rất tốt nhưng vấn đề, dư luận chỉ là dư luận thôi, nhiều khi lại trở thành lá cải, thành “tin đồn thất thiệt” nên chẳng ai buồn nghe mà quan tâm. Ồn ào một dạo, ậm ừ cho rằng người này đúng, người kia sai… rồi cũng qua. Nhưng trong thâm tâm tôi, trong tận sâu đáy lòng mình, tôi đang cảm nhận một điều: Anh Vươn đang một mình chống bão. Ai dám bênh anh? Tôi ư? Tôi là ai? Có quyền gì? Tôi chỉ là một công dân bình thường, là mẹ của 2 đứa con và chỉ cung cúc làm việc cho tròn phận sự, chỉ tròn phiên phiến thôi chứ không vành vạnh được… Rồi thì anh sẽ vào tù (99% chuyện này sẽ xảy ra, dù là tôi không mong muốn, anh Vươn ạ, nếu anh có đọc được dòng này, đừng trách tôi trù úm vì anh, chắc cũng đã hiểu rồi); rồi thì mảnh đất màu mỡ tay anh tạo dựng sẽ về tay người khác – cái người mà chính quyền đã vì họ mà “tuyên chiến” với anh để giành lại; rồi thì những người đẩy anh vào đường cùng với sự uất hận không thể thốt lên được cùng lắm cũng chỉ bị, bị sao nhỉ, so sánh thử xem thế nào, kiểu như “muỗi đốt cột điện”, “voi uống philatop” ấy… sẽ hạ cánh an toàn, vô tư đi… Tôi chỉ lấy làm tiếc và thương cho anh và những người khác trong gia đình anh.
Tôi xin lỗi vì dù muốn, tôi cũng không dám hi vọng một tương lai tươi sáng sẽ ở lại với anh và gia đình – một khi “những người kia” còn tồn tại và xử tội anh. Nói tóm lại, tôi cảm thấy một điều, anh không còn cơ hội, không còn niềm tin làm lại cuộc đời nữa. Bây giờ, với nỗi uất hận của chính anh, tôi cho rằng anh sống không bằng chết…

Tác giả gửi cho Quê choa
(Bài vở gửi đăng QC là chủ kiến riêng của tác giả, không hẳn là chủ kiến của QC)

Bắc Hàn xét xử những người không khóc ‘bác’ Kim


-
Những người không khóc trong đám tang Kim Jong- il (Kim Chính Nhật) có thể sẽ phải chịu mức án tới 1 năm rưỡi lao động cải tạo. Hãng thông tấn Nam Hàn đã cho biết như vậy và tin này sau đó được nhiều cơ quan truyền thông quốc tế đưa lại.

Ngày 29/12, tức ngày cuối cùng của kỳ hạn đề tang, ở các cấp chính quyền ở Bắc Hàn đã có những cuộc họp nhằm phát giác những người không biểu lộ tình cảm đúng mức với “lãnh tụ kính yêu”.

Tòa án nhân dân theo kiểu đấu tố tập thể này kết thúc hôm 8/1/2012 và nhiều người có thể sẽ bị đưa vào trại cải tạo.

Kim Chính Nhật chết hôm 17/12 sau một cơn đau tim “trên đường đi thị sát bằng tầu hỏa ở một địa phương”. Nhưng vệ tinh của Mỹ sau đó nói, con tầu đáng ra đưa Kim đi thị sát đã không hề rời khỏi nhà ga.

Kim có thể đã chết ở nhà riêng nhưng cũng có nguồn tin cho rằng Kim bị ám sát. Trước đó Kim từng bị đau tim.

Kể từ lúc Kim qua đời cho tới đám tang của ông, thế giới chứng kiến những màn khóc tập thể của mọi tầng lớp nhân dân, từ trẻ em tới người già, thường dân tới quân nhân. Nhiều người gọi đây là sự “lên đồng tập thể.”

Diễn biến mới nhất, dù mạnh mồm tuyên bố, không thay đổi nhưng Bắc Hàn đã lên tiếng xin Mỹ cứu trợ lương thực, thực phẩm.

© Đàn Chim Việt

VIDEO - CHỦ TỊCH HUYỆN Hoài Đức, TP Hà Nội PHÁ NHÀ CƯỚP ĐẤT CỦA DÂN?

Source: http://xuandienhannom.blogspot.com/2012/01/them-mot-chu-tich-huyen-pha-nha-cuop-at.html


Thưa chư vị,
Chúng tôi vừa nhận được lời kêu cứu, cùng 02 video clip và rất nhiều hình ảnh của hai gia đình liệt sĩ ở khu Cổ Bồng, xã Di Trạch huyện Hoài Đức, TP Hà Nội tố cáo Chủ tịch huyện Hoài Đức Vương Duy Hướng chỉ đạo phá nhà cướp đất của họ, đẩy hai gia đình này phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất kể từ ngày 18 tháng 3 năm 2010 đến nay. Xin đăng tải lên đây để chư vị được biết: 
Hai gia đình liệt sỹ ở xã Di Trạch huyện Hoài Đức bị Chủ tịch huyện Hoài Đức Vương Duy Hướng cướp đất trắng trợn
Chúng tôi là Trần Thị Vượng và Nguyễn Thị Vân đều là góa phụ ở Cổ Bồng, xã Di Trạch, huyện Hoài Đức Hà Nội, xin trình bày hoàn cảnh gia đình bị Chủ tịch huyện Hoài Đức Vương Duy Hướng cướp đất trắng trợn như sau:
I.Đối với hộ Nguyễn Thị Vân - gia đình có 3 liệt sĩ, 1 bà mẹ Việt Nam anh hùng
Số điện thoại: 01688437128
Năm 1980 cụ Nguyễn Thị Nhớn mẹ hai liệt sỹ chống Mỹ Nguyễn Đình Mộc (hy sinh ở chiến trường Lào năm 1969) và Nguyễn Đình Dục (hy sinh ngày 15/03/1969 ở Quảng Trị). Quá đau buồn có hai con chết trận, cụ lên mảnh đất gần bãi tha ma Cổ Bồng khai hoang mảnh đất 213,83 m2. Việc cụ Nhớn ở từ năm 1980 trên mảnh đất cụ khai hoang được ông Nguyễn Đình Thuận chủ tịch xã khóa 1980 ký chứng, xác nhận; được ông Nguyễn Bá Khải bí thư Đảng ủy xã Di Trạch khóa 1980 ký chứng xác nhận; được ông Vương Tất Cân chủ tịch xã năm 2001 ký tên, đóng dấu xác nhận và đề nghị huyện và các cấp hợp thức hóa đất cho cụ. Hộ liền kề là ông Đỗ Mạnh Hoan cũng xác nhận đúng sự thực cụ Nhớn ở từ năm 1980 trên đất bỏ hoang. Năm 2001 thì cụ Nhớn làm nhà 02 tầng kiên cố tích cóp từ tiền lương, tiền xương máu của hai liệt sỹ chống Mỹ để làm nhà thờ Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Nhĩ và con cụ Nhĩ là liệt sỹ chống Pháp Nguyễn Đình Cần. Năm 2009 cụ Nhớn mất thừa kế nhà đất cho tôi. Trong hơn 30 năm từ 1980 đến ngày 18/03/2010 gia đình tôi sinh sống ổn định không tranh chấp với cá nhân, cơ quan tổ chức nào.
Ngày 21/12/2009 chủ tịch huyện Hoài Đức Vương Duy Hướng vu khống chúng tôi làm nhà trên đất nông nghiệp. Tôi yêu cầu ông Hướng xuất trình bằng chứng đất nông nghiệp thì không có. Ngày 18/03/2010 ông Hướng huy động hàng trăm công an, nhiều máy ủi đến phá tan căn hộ hai tầng của gia đình tôi trước sự phẫn nộ của hàng ngàn người đi đường. Chúng đập phá đồ đạc, nhà cửa, ném hết bằng Tổ quốc ghi công ra ngoài đường, người người đều phẫn nộ. Từ ngày 18/03/2010 đến nay gia đình tôi sống cảnh màn trời chiếu đất. Cán bộ huyện Hoài Đức suốt ngày rêu rao là uống nước nhớ nguồn, đời đời nhớ ơn liệt sỹ, vậy là nhớ ơn bằng cách cướp đất, ném bằng Tổ quốc ghi công ra ngoài đường cướp đất mang đi bán chia chác nhau.
I. Đối với hộ Trần Thị Vượng gia đình có 1 Liệt sĩ
Số điện thoại: 0985955698 (gặp anh Kết)
Tháng 05/1989 gia đình tôi đã khai hoang mảnh đất 627m2 trên mảnh đất Cổ Bồng gần bãi tha ma ngày trước, dựng nhà ở. Việc gia đình tôi ở từ tháng 05/1989 các cấp chính quyền đều biết rõ nhưng chẳng ai có ý kiến gì. Ngày 15/04/1995 đoàn kiểm tra liên ngành của xã Di Trạch công nhận gia đình tôi làm nhà trên đất bỏ hoang lâu ngày. Ngoài ra gia đình tôi còn được bà Vương Thị Loan chủ tịch xã Di Trạch ký đóng dấu xác nhận đã ở từ năm 1989 trên mảnh đất bỏ hoang; được ông Lý Bá Hòa nguyên là trưởng công an xã Di Trạch nay là phó chủ tịch xã Di Trạch ký tên, đóng dấu xác nhận gia đình tôi ở từ 1989 trên đất hoang là đúng sự thật; được ông Phạm Gia Thắng và ông Nguyễn Xuân Diện là trưởng và phó Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện ký tên, đóng dấu công nhận gia đình tôi ở từ năm 1989 trên đất hoang là đúng sự thật. Trong 21 năm tính từ tháng 05/1989 đến ngày 18/03/2010 gia đình tôi sinh sống ổn định lâu dài, không có cá nhân cơ quan, tổ chức nào khiếu kiện tranh chấp. Như vậy, theo Luật Đất đai ban hành năm 2003 thì thừa đủ điều kiện cấp sổ đỏ. Vậy mà ngày 21/12/2009 chủ tịch huyện Hoài Đức Vương Duy Hướng vu cho gia đình tôi làm nhà trên đất nông nghiệp, không có bằng chứng, không có quyết định thu hồi đất. Ngày 18/03/2010 ông Hướng chủ tịch huyện Hoài Đức cho công an, máy xúc máy ủi ào ào đến đập phá, ném bằng Tổ quốc ghi công ra ngoài đường để cướp đất, nhiều người đi đường phẫn nộ. Từ ngày  18/0/30/2010 đến nay 05 mẹ con tôi sống cảnh màn trời chiếu đất rất khổ. Cầm thú còn biết yêu thương đồng loại, còn ông Hướng chủ tịch huyện Hoài Đức thì không!
Cả  hai chúng tôi đều kêu cứu đến thành phố Hà nội nhưng ông Vũ Hồng Khanh phó chủ tịch thành phố bao che cho ông chủ tịch huyện Hoài Đức Vương Duy Hướng.Chúng tôi tiếp tục kêu cứu, khiếu nại lên Đảng, Nhà nước, tòa án tối cao nhưng chẳng ai giải quyết.
Nay chúng tôi khổ lắm rồi, chẳng còn biết kêu ai nữa, đã kêu hết các cơ quan từ thấp đến cao rồi! Hai gia đình chúng tôi đã đổ bao xương máu cho Đảng cho Dân, nay chính quyền xã, huyện đối xử với thân nhân anh  hùng liệt sỹ, Mẹ Việt Nam anh hùng là thế đấy! Lúc chiến tranh, cha ông chúng tôi ra trận bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc nên mới có ngày hôm nay, thế mà ông Hướng là kẻ đã quên lời Đảng dạy phải biết ơn, đời đời biết ơn anh hùng, liệt sỹ.
Nay chúng tôi chỉ còn cách kêu cứu! Xin hãy giúp đỡ, lên tiếng bảo vệ quyền lợi cho chúng tôi, để những kẻ ác bá phải bị trừng trị bởi pháp luật và công lý.
Di Trạch ngày 10/1/2012

Trần Thị Vượng -  Nguyễn Thị Vân

     Email: tranthivuonghoaiduc@gmail.com
_________________

 ĐƠN CẦU CỨU KHẨN CẤP NHƯNG CHƯA ĐƯỢC CỨU


 
02 VIDEO CLIP LỜI KÊU CỨU CỦA HAI GIA ĐÌNH LIỆT SĨ



ĐẠI GIA ĐÌNH LIỆT NGUYỄN THỊ VÂN Ở CỔ BỒNG XÃ DI TRẠCH HUYỆN HOÀI ĐỨC BỊ CHỦ TỊCH HUYỆN HOÀI ĐỨC VƯƠNG DUY HƯỚNG CƯỚP ĐẤT,HIỆN ĐANG SỐNG CẢNH MÀN TRỜI CHIẾU ĐẤT TỪ 18/03/2010 ĐẾN NAY
*********

MỘT SỐ HÌNH ẢNH HIỆN TRẠNG HAI GIA ĐÌNH LIỆT SĨ Ở KHU CỔ BỒNG, XÃ DI TRẠCH, 
HUYỆN HOÀI ĐỨC, THỦ ĐÔ HÀ NỘI


















Đ/c Hứa thị Lèo gặp Đ/c Héo thị Lừa


Biếm họa PHO (danlambao)

Từ “Phạm Văn Đồng” tới “Thành Đô”, hai công hàm bán nước


Trần Trung Đạo (danlambao) - Về hình thức "công hàm Phạm Văn Đồng" chẳng khác gì một công án thiền, chỉ 121 chữ với nội dung đơn giản nhưng làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực, phân tích, bàn thảo và làm ngưng chảy dòng nhận thức của mọi người mỗi khi nhắc đến. Huyền bí hơn nữa, "công hàm" là một tài liệu có thật và là cây gai trong mắt của những người quan tâm đến vận mệnh đất nước, nhưng trong bao nhiêu lần "xác định chủ quyền Việt Nam trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa" giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam không hề nhắc đến, tưởng chừng như văn bản đó không phải là của họ. Sự im lặng phải có lý do, bởi vì nếu chỉ là vấn đề biển đảo, lãnh đạo đảng đã giải thích từ lâu rồi đâu cần đợi ai nhắc nhở.

Trước khi bàn đến "công hàm" mới, phải nhắc lại vài chuyện về "công hàm" cũ. 

Ngày ngày 4 tháng 9 năm 1958, Quốc hội Trung Quốc ra tuyên bố hai điểm, điểm thứ nhất có liên hệ trực tiếp đến lãnh thổ Việt Nam gồm Tây Sa tức Hoàng Sa và Nam Sa tức Trường Sa. Đáp lại lời tuyên bố này, ngày 14 tháng 9 năm 1958, Phạm Văn Đồng, Thủ tướng CSVN đã gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai một công hàm "ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc." 

Ngày 22 tháng Chín năm 1958, công hàm đã được đăng trên báo Nhân dân để toàn Đảng, toàn dân và toàn thế giới biết hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. Những ai trước nay nghĩ rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam vì đọc Phủ Biên Tạp Lục của học giả Lê Quý Đôn hay Đại Nam Thực Lục của triều Nguyễn v.v.. không những là một sai lầm lịch sử mà còn đi được lại quyết định của Đảng. Ngày 19 tháng Giêng năm 1974, hải quân Trung Quốc tấn công quần đảo Hoàng Sa. Sau những trận hải chiến không cân sức, hải quân Việt Nam Cộng Hòa triệt thoái khỏi Hoàng Sa. Từ đó, quần đảo thân yêu này nằm trong tay giặc. 

Khi quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trở nên tồi tệ sau năm 1975 vấn đề chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa được đưa ra. Đặc biệt sau chiến tranh biên giới lần thứ nhứt năm 1979, Việt Nam ra bạch thư về chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo này với nhiều bằng chứng và tài liệu lịch sử Việt Nam cũng như quốc tế. Phản ứng về phía Trung Quốc, ngoài việc dẫn chứng các "tài liệu lịch sử" riêng của mình, họ còn dựa vào công hàm Phạm Văn Đồng để cho rằng Việt Nam chính thức thừa nhận hai quần đảo là của Trung Quốc từ năm 1958. Trung Quốc còn cho biết ngay trong các sách giáo khoa địa lý bậc trung học trước năm 1975 tại miền bắc Việt Nam cũng đã xác định Hoàng Sa Trường Sa là của Trung Quốc, và ngoài ra, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Ung Văn Khiêm cũng lập lại điều này khi tiếp tham vụ tòa đại sứ Trung Quốc Li Zhimin. 

Một làn sóng công phẫn trong các tầng lớn nhân dân, trước năm 1975 chỉ phát xuất từ miền nam, đã bắt đầu dấy lên trong vài ngoài nước. Nhưng cùng lúc với những chê trách, giận dữ, kết án, nhiều quan điểm cũng được đưa ra như một cách mách nước cho đảng để tháo gỡ chiếc vòng kim cô đảng tự đặt lên đầu từ năm 1958. 

Cách gỡ rối thứ nhất cho rằng công hàm không có giá trị pháp lý vì một quyết định vô cùng quan trọng như thế phải được quốc hội thông qua. 

Cách gỡ rối thứ hai cho rằng Trung Quốc đã xuyên tạc nội dung công hàm vì công hàm của Phạm Văn Đồng không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa. 

Cách gỡ rối thứ ba cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng "chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan." 

Cách gỡ rối thứ tư cho rằng theo nội dung hội nghị Geneva, Hoàng Sa Trường Sa đã thuộc về phía Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia có chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ trong khuôn khổ của hiệp định Geneva. 

Cả bốn cách gỡ rối đều không vững. 

Vấn đề có thông qua hay không thông qua, vi phạm hay không vi phạm hiến pháp Việt Nam là vấn đề riêng của Việt Nam. Thực tế quốc hội chỉ là cơ quan đóng dấu tại các quốc gia Cộng Sản đã được quốc tế thừa nhận. Tổng thống Gerald Ford ký thông cáo chung về thỏa hiệp SALT với Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev tại Vladivostok năm 1974 mặc dù thời điểm đó Chủ tịch Sô Viết Tối Cao là Nikolai Podgorny. Ngày 29 tháng Giêng năm 1979 Tổng thống Jimmy Carter ky thỏa hiệp bình thường hóa các quan hệ kỹ thuật, kinh tế, thương mại với Đặng Tiểu Bình mặc dù chức vụ của họ Đặng chỉ là một phó thủ tướng. Dưới chế độ Cộng Sản, mọi văn bản quan trọng đều phải thông qua bộ chính trị, cơ quan quyền lực tối cao. Phạm Văn Đồng, ủy viên Bộ chính tri, đóng vai thủ tướng chính phủ nên phải ký công hàm. Thời điểm tháng 9 năm 1958, danh sách bộ chính trị được bầu ra trong Đại hội lần II năm 1951 cũng như được bổ túc trong những năm sau đó gồm Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan. 

Lý luận cho rằng Trung Quốc đã xuyên tạc nội dung công hàm Phạm Văn Đồng vì công hàm không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa lại càng yếu hơn. Báo Đại Đoàn Kết phát hành 20/07/2011 viết:"Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu." Cãi như báo Đại Đoàn Kết là một cách tự kết án mình vì lời tuyên bố của phía Trung Quốc ghi rõ: "Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ (Penghu), quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc" và Việt Nam phấn khởi đáp ứng bằng cách "ghi nhận và tán thành" toàn văn bản. 

Lý luận cho rằng Việt Nam chỉ bày tỏ "thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Trung Quốc đã phản bội Việt Nam khi dùng công hàm đó để chủ trương chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa" do một nhóm 14 tác giả ký trong kiến nghị gởi đảng Cộng Sản Việt Nam cũng không thuyết phục. Việt Nam tự đưa cổ vào tròng chứ không phải Trung Quốc đặt tròng vào cổ Việt Nam. Bản tuyên bố của phía Trung Quốc không chỉ nhằm xác định chủ quyền trên các đảo Đài Loan mà cả các nhóm đảo khác trong đó có Hoàng Sa (tên tiếng Tàu là Tây Sa) và Trường Sa (tên tiếng Tàu là Nam Sa), và công hàm của Phạm Văn Đồng cũng không chỉ nhắm vào Đài Loan mà ủng hộ toàn bộ lời quyết định về hải phận của Trung Quốc. Không một quan tòa quốc tế nào trình độ sơ đẳng đến mức đánh giá hai văn bản một cách độc lập với nhau. 

Lý luận khác nữa dựa vào hiệp định Geneva, tuyên cáo của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa công bố ngày 14 tháng Hai năm 1974 xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Bạch thư của Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa đầu năm 1975 để bác bỏ giá trị pháp lý của công hàm Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng không thể công nhận những gì không thuộc lãnh thổ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đây là lý luận có cở sở pháp lý nhất và có thể dùng để biện luận trong các hội nghị quốc tế, rất tiếc Việt Nam Cộng Hòa không còn hiện diện, về mặt công pháp quốc tế Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được xem như giữ quyền tài phán. 

Một người Việt Nam nào có chút quan tâm về đất nước cũng có lần tự hỏi tại sao lãnh đạo đảng ngày đó sơ sót đến mức như vậy ? 

Phải chăng vì thời điểm đó "tình hữu nghị Việt - Trung đang thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau" như ông Nguyễn Mạnh Cầm phát biểu? 

Phải chăng vì thời điểm đó, đảng phải tập trung vào chiến tranh "chống Mỹ cứu nước" như chính tác giả Phạm Văn Đồng phân trần? 

Không, họ chẳng những không sơ sót, không chọn lựa khó khăn nhưng hành động bằng cả nhiệt tình. Trong quan điểm của đảng, công hàm Phạm Văn Đồng phản ảnh mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của đảng CSVN. Việc chọn lựa đảng trên đảo, đặt lý tưởng Cộng Sản trên quyền lợi dân tộc là một chọn lựa tự nhiên, khách quan, hoàn toàn phù hợp với hướng phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự nô lệ vào tư tưởng Cộng Sản bao trùm lên mọi lãnh vực đời sống của xã hội miền bắc. 

Tưởng cũng cần nhắc lại, thời điểm năm 1958 còn là thời điểm nóng bỏng giữa Trung Quốc và Mỹ về vấn đề Đài Loan. Mỗi ngày, pháo binh Trung Quốc bắn hàng trăm viên đại bác vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Như Mao tiết lộ với Khrushchev sau này, y không có ý định "giải phóng" Đài Loan. Việc bắn phá Đài Loan chỉ là thái độ của kẻ "ăn không được phá cho hôi" để thỏa lòng căm hận. Thời điểm năm 1958 vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa chưa phải là mối bận tâm hàng đầu của Trung Quốc, tuy nhiên những người soạn thảo bản công bố chủ quyền biển của Trung Quốc đã biết phòng xa. Việt Nam thì không. Việt Nam cũng có nhiều cách để làm hả dạ đàn anh Trung Quốc mà vẫn giữ được chủ quyền đất nước và cách dễ nhất là viết, gạch đít, đóng khung, tô màu hai chữ Đài Loan trong văn bản. Giới lãnh đạo đảng đã không làm điều đó. 

Nửa thế kỷ trước, cả bộ chính trị lẫn trung ương đảng CSVN viễn du trong giấc mộng về một thiên đường quốc tế vô sản, trong đó con người mang quốc tịch Trung Hoa hay Việt Nam cũng không mấy khác nhau. Trung Quốc có chiếm Hoàng Sa cũng chẳng qua là giữ giùm cho Việt Nam, tốt hơn là để cho Mỹ chiếm. Nói ra như một chuyện cười nhưng đó là sự thật. Đảng Cộng Sản Việt Nam mang ơn đảng Cộng Sản Trung Quốc sâu đậm. Như hầu hết tài liệu quốc tế và cả tài liệu chinh thức của đảng, trong thập niên năm 1950, Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc không những súng đạn, lương thực, chỉ huy, hậu cần, lãnh đạo mà cả tư tưởng và tinh thần. Điện văn của đảng Lao động Việt Nam gởi đảng Cộng Sản Trung Quốc sau hội nghị đảng lần thứ hai tháng 3 năm 1951 như Hoàng Văn Hoan nhắc lại trong hồi ký Giọt nước và biển cả: "Đảng Lao động Việt Nam nguyện noi gương anh dũng Đảng Cộng sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lãnh đạo nhân dân Trung Quốc và các dân tộc Á Đông trên con đường độc lập và tự chủ." 

Lịch sử chống ngoại xâm đầy hy sinh xương máu của tổ tiên ta để có một nắm đất xây lên đó một mái nhà tranh che nắng che mưa gọi là Việt Nam đối với lãnh đạo đảng là sản phẩm của tư duy phong kiến. Theo lý luận duy vật lịch sử, mỗi hình thái sản xuất có một thượng tầng kiến trúc chính trị, văn hóa, xã hội, nhân văn thích hợp, những gì của quá khứ đã thuộc về quá khứ. Trong quan điểm của đảng, các nỗ lực của tổ tiên ta nhằm ngăn chặn âm mưu đồng hóa của các triều đại Hán, Tấn, Tề, Lương, Tùy, Đường, Tống, Minh v.v. đều mang tính lịch sử, tính giai cấp chứ không phải tính văn hóa, tính truyền thống, xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ tươi đẹp hơn, con người xã hội chủ nghĩa văn minh hơn và Trung Quốc sẽ đối xử với các nước nhỏ láng giềng bình đẳng trong tinh thần quốc tế vô sản chứ không phải bằng tinh thần đại Hán. 

Mục đích căn bản của Ban nghiên cứu Lịch sử và địa lý Việt Nam được thành lập ngày 2 tháng 12 năm 1953 không phải nhằm tổng hợp các tài liệu lịch sử, địa lý Việt Nam mà để "Góp phần vào việc bồi dưỡng lý luận về chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng của Đảng. Góp phần nâng cao tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản của nhân dân ta. Phê phán những quan điểm, tư tưởng phản động sai lầm. Phát triển giao lưu văn hóa, khoa học với các nước." Với các mục đích phản ảnh tinh thần vong thân nô lệ như thế, không lạ gì từ trung ương đảng cho đến các chi bộ hạ tầng, từ các đại học cho đến các trường trung học phổ thông, từ các nhà văn cho đến nhà thơ, không một tài liệu nào cho thấy có một tiếng nói khác gióng lên hay một nhà nghiên cứu nào nêu lên thắc mắc. Việc Trung Quốc quả quyết sách giáo khoa địa lý tại miền bắc cũng đã xác định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc không phải là không có căn cứ.
Trong Tuyển tập Mao Trạch Đông, họ Mao từng nhấn mạnh một cách hãnh diện chín chục phần trăm người Trung Hoa là gốc Hán, tuy nhiên, trong mắt lãnh đạo đảng CSVN, đám Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai không liên hệ huyết thống gì với đám Tô Định, Mã Viện, Lưu Long thời Tây Hán, một triều đại đã thực hiện các chính sách đồng hóa tổ tiên Việt Nam một cách tàn bạo đến nỗi sử gia Lê Văn Hưu phải thốt lên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản gỗ khắc năm Chính Hòa 1697:"Xin trời vì nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà." 

Khai quật "công hàm Phạm Văn Đồng" không phải là đề xác nhận giá trị pháp lý của mảnh giấy lộn đó. Không một người, tổ chức, đảng phái nào có quyền sang nhượng lãnh thổ Việt Nam, nơi máu xương của bao nhiêu thế hệ đã thắm lên từng nắm đất. Quyết tâm bảo vệ đất nước qua lời thề Lũng Nhai, lời nguyền sông Hóa vẫn còn vang vọng. Thậm chí cho dù cái gọi là quốc hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày đó có thừa nhận Hoàng Sa Trường Sa là của Trung Quốc đi nữa cũng chỉ là sự thừa nhận của một nhóm người, của một đảng độc tài cai trị dân tộc bằng nhà tù sân bắn chứ không phải đại diện cho tiếng nói của nhân dân Việt Nam. 

Khai quật "công hàm Phạm Văn Đồng" để thế hệ trẻ Việt Nam thấy bộ mặt thật phía sau chiêu bài "giải phóng dân tộc" của các tầng lớp lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam. Đảng im lặng không phải vì đảng chưa nghĩ đến bốn cách gỡ rối nêu trên mà chỉ vì công hàm Phạm Văn Đồng là biểu tượng cho ý thức vong bản của một thế hệ lãnh đạo Cộng Sản đang được thần tượng hóa tại Việt Nam. Đám mây đen Cộng Sản đã che khuất lương tri và nhân tính Việt Nam trong con người họ. Giới lãnh đạo đảng không dám công khai tuyên bố hủy bỏ công hàm bởi vì làm như thế là thừa nhận sự u mê, bản chất phản quốc, phản dân tộc của đảng. Họ không đủ can đảm để nguyền rùa chính mình và ly khai với quá khứ của mình. 

Khai quật "công hàm Phạm Văn Đồng" để những ai nghĩ rằng giới lãnh đạo CSVN đã nhận thấy hiểm họa Trung Quốc và chọn lựa đứng về phía Liên Xô để đưa đất nước tiến nhanh hơn trên đường công nghiệp hóa chưa hẳn là đúng. Theo Giáo Sư đại học Harvard Ezra F. Vogel trong tác phẩmĐặng Tiểu Bình và sự biến đổi Trung Hoa (Deng Xiaoping and the Transformation of China), việc Đặng Tiểu Bình đánh Việt Nam chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Sự xáo trộn chính trị nội bộ của Trung Quốc trong thời gian ngắn trước và sau khi Mao chết với các thành phần cực tả khuynh loát quyền hành và bản thân y bị thanh trừng, đã đẩy Việt Nam về phía Liên Xô. Họ Đặng tin rằng nếu y lãnh đạo, với việc nắm vững chính trị Việt Nam và là người đã làm việc với hầu hết cấp lãnh đạo đảng CSVN từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẩn, Việt Nam có thể vẫn còn trong vòng kiểm soát của Trung Quốc mà không cần súng đạn. Nếu quả đúng và đã diễn ra như Đặng Tiểu Bình phát biểu, Việt Nam hôm nay dù chưa thành một khu tự trị, cũng có thể đã là một nước nhỏ trong vòng một nước lớn Trung Hoa. 

Khai quật "công hàm Phạm Văn Đồng" để thấy cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt, đế quốc Mỹ ra đi, đế quốc Liên Xô sụp đổ nhưng nợ máu xương giữa hai đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam phải trả bằng thân xác của những người dân vô tội vẫn còn kéo dài cho đến ngày nay. Cuộc chiến biên giới năm 1979 là một thất bại quân sự nhục nhã cho Đặng Tiểu Bình. Trung Quốc che giấu thất bại quân sự chua cay này bằng cách im lặng và ngăn chặn việc phổ biến dưới mọi hình thức các tài liệu có liên quan đến cuộc chiến. Zhou Xu Ke, một cựu chiến binh biên giới và tác giả của cuốn sách do ông tự in lấy Cuộc chiến cuối cùng trả lời hãng tin AFP: "Tại Trung Quốc, chính phủ tôn trọng lịch sử chẳng khác gì tôn trọng chó." Về phía Việt Nam cũng chẳng tốt lành hơn. Máu của thanh niên Việt Nam đổ xuống để bảo vệ Lạng Sơn, Cao Bằng v.v… phát xuất từ lòng yêu nước trong sáng và xứng đáng được kính trọng nhưng khi cuộc cờ tàn, chẳng còn ai nhắc nhở đến máu xương đó nữa. Sau cuộc chiến tranh biên giới, Đặng Tiểu Bình đã thay đổi cấp lãnh đạo, phương hướng phát triển kinh tế và mở rộng ảnh hưởng đến các nước tư bản tự do; trong lúc đó giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam tự cô lập trong chuyên chính vô sản, lạc hậu trong thời bao cấp, tem phiếu, thu mua để rồi đưa đất nước đến thảm trạng nghèo đói tận cùng suốt thập niên năm 1980. 

Sau khi Liên Xô sụp đổ, không còn ai che chỡ, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam lại lần nữa tìm về nương náu dưới chiếc bóng của đàn anh Trung Quốc. Hội nghị bí mật tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh và phía Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân và Lý Bằng thực chất là lễ cam kết một loại "công hàm Phạm Văn Đồng" khác. Cựu thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ phân tích một cách chi tiết các diễn tiến dẫn tới sự kiện Thành Đô trong hồi ký của ông ta. Không ai, ngoài Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh, biết chính xác nội dung hội nghị bí mật Thành Đô nhưng qua thái độ nhu nhược và phản ứng yếu hèn của giới lãnh đạo CSVN trước các hành động chiếm đảo, bắn tàu, cắt dây cáp, giết người tàn nhẫn của hải quân Trung Quốc và mới đây bắt bớ hàng loạt người Việt gióng lên tiếng nói bất bình, cho thấy nội dung bán nước trong "công hàm Thành Đô" hẳn còn trầm trọng và chi tiết hơn cả "công hàm Phạm Văn Đồng"

Trong lễ ký kết thỏa hiệp chiều ngày 7 tháng 11 năm 1991 tại Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư Đài Bắc Kinh, Giang Trạch Dân không quên nhắc nhở đến các cam kết cũ và xác định phương pháp mới trong quan hệ Việt Trung như còn ghi lại trong Diễn Đàn Kinh Tế Việt Trung: "Hoan nghênh các đồng chí Việt Nam sang Trung Quốc hội đàm với chúng tôi. Các đồng chí là những người thuộc thế hệ lãnh đạo lão thành của Việt Nam, cũng là những người bạn lão thành quen biết của những người thuộc thế hệ lãnh đạo lão thành của Trung Quốc; điều đáng tiếc là đã mười mấy năm chưa được gặp nhau. Tôi và đồng chí Lý Bằng một hai năm gần đây tiếp nhận công tác của bậc tiền bối lão thành. Thật đúng là 'trên sông Trường Giang, ngọn sóng sau đẩy ngọn sóng trước, trên đời lớp người mới thay lớp người cũ'. Nhưng chúng tôi hy vọng giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể khôi phục mối quan hệ mật thiết giữa hai Đảng và hai nước do những người lãnh đạo thuộc thế hệ lão thành xây dựng nên." 

Tại sao lãnh đạo Trung Quốc chấp nhận sự quy phục của lãnh đạo CSVN? Bởi vì, (1) là thế hệ chứng kiến sự tranh giành quyền lực giữa các lớp đàn anh, Giang Trạch Dân biết tham vọng quyền lực đã hòa trong mạch sống, hơi thở, máu thịt của Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh và giới lãnh đạo CSVN, (2) không giống như thời Liên Xô chưa sụp đổ, lần này đảng CSVN không còn một con đường thoát nào khác, nhưng ba điểm sau quan trong hơn, (3) Việt Nam là hành lang chiến lược trong vùng Nam Á, (4) vào thời điểm 1990. đối tượng cạnh tranh của Trung Quốc không còn là Việt Nam mà là Mỹ, Đức, Nhật và (5) mục tiêu bành trướng của Trung Quốc cũng không phải chỉ là Hoàng Sa Trường Sa mà là cả vùng Thái Bình Dương. 

Đọc hồi ký của Trần Quang Cơ để thấy mặc dù nhân loại sắp bước vào một thiên niên kỷ mới, nhận thức về chính trị và bang giao quốc tế của các lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam vẫn còn ngây thơ đến tội nghiệp làm sao. Năm 1990, khi Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu như những cánh bèo tan tác ngoài cửa biển mà các lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam vẫn còn nghĩ đến việc liên kết với Trung Quốc chống đế quốc Mỹ: "Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên còn nhấn vào âm mưu của đế quốc Mỹ sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu" và "Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu đế quốc xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, phải cùng chống đế quốc." 

Cũng vào thời điểm này, Đặng Tiểu Bình đã viếng thăm và ký các thỏa hiệp kinh tế chính trị với các quốc gia tư bản như Mỹ (1979), Anh (1984) cũng như mở rộng hợp tác kinh tế với Đức vừa thống nhất và cựu thù Nhật Bản nhưng các lãnh đạo CSVN còn mơ mộng Trung Quốc sẽ thay mặt Liên Xô giương cao ngọn cờ quốc tế vô sản. Đặng Tiểu Bình không có mặt trong hội nghị bí mật Thành Đô dù phía Trung Quốc đã hứa một phần vì y chưa nguôi cơn giận chiến tranh biên giới nhưng phần khác cũng vì Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh không xứng đáng là đối tượng thảo luận trong tầm nhìn của y về tương lai Trung Quốc và thế giới, nói chi là số phận Việt Nam. Sau "công hàm Thành Đô" và tái lập quan hệ giữa hai đảng vào ngày 7 tháng 11 năm 1991, các lãnh đạo CSVN thay phiên nhau triều cống Trung Quốc. Lê Đức Anh sang Trung Quốc 28 tháng Giêng năm 1991, Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt sang Trung Quốc 5 tháng 11 năm 1991 và gần như hàng năm các lãnh đạo CSVN luân phiên nhau sang Trung Quốc để lập lại lời hứa phục tùng. 

Sau khi đặt đảng CSVN trở lại trong vòng kiểm soát, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua "Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp" quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, ngày 8 tháng 5 năm 1992 Trung Quốc ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone của Mỹ, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa của Việt Nam, nằm ở phía Tây Nam của quần đảo Trường Sa. Trung Quốc cũng hứa với công ty Creston sẽ bảo vệ bằng võ lực nếu Việt Nam can thiệp vào công việc của họ. Ngoài các hoạt động khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam, Trung Quốc còn ngang ngược ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa, và cho phép hải quân Trung Quốc bắn giết ngư dân Việt Nam vô tội không phải chỉ một lần mà rất nhiều lần. Các lãnh đạo Việt Nam, lo cho sự sống còn của đảng Cộng Sản, đáp lại bằng những lời than vãn gần như giống nhau sau những lần Trung Quốc xâm phạm chủ quyền. 

Tại sao Trung Quốc không ngang ngược với Nhật Bản, Philippines, Mã Lai, Brunei, những quốc gia đang tranh chấp chủ quyền Trường Sa? Bởi vì các quốc gia đó thật sự có chủ quyền chính trị, chính phủ trong sạch được bầu lên một cách hợp pháp, có nhân dân hậu thuẩn, có quốc tế kính trọng, có nhân loại cảm tình. Một chiếc tàu đánh cá treo quốc kỳ Nhật, quốc kỳ Phi làm hải quân Trung Quốc e dè, kiêng nễ trong lúc tàu đánh cá treo cờ đỏ sao vàng lại trở thành mục tiêu tác xạ. Thật vậy, với một bên quyết tâm trả thù cho "một trăm năm sỉ nhục" bằng chủ trương bành trướng khắp thế giới và một bên chỉ mong được tiếp tục đè đầu cởi cỗ chính đồng bào mình, lãnh đạo Trung Quốc rất yên tâm vì họ biết rõ, ngày nào đảng Cộng Sản còn cai trị nhân dân Việt Nam, ngày đó Trung Quốc còn chi phối đượcViệt Nam. 

Nicholas D. Kristof và Sheryl Wudunn, đồng tác giả của Trung Hoa thức dậy (China Wakes: The Struggle for the Soul of a Rising Power) nhận xét rằng xung đột có khả năng cao nhất sẽ dẫn đến chiến tranh tại Á Châu là xung đột về các quần đảo trong biển đông. Vì đặc điểm địa lý chính trị, chiến lược quân sự và là quốc gia duy nhất trong số các quốc gia tranh chấp đã trực tiếp hy sinh xương máu trên hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam được hầu hết các nhà phân tích nhận xét sẽ là điểm xuất phát của một cuộc tàn sát chưa từng thấy ở Á Châu. 

Để đối phó với một Trung Quốc đầy tham vọng, hầu hết các quốc gia có quyền lợi trong vùng như Nam Dương, Mã Lai, Philippines đang làm mọi cách để phát triển kinh tế, tăng cường khả năng quốc phòng hầu ngăn chận bàn chân Trung Quốc. Các chính trị gia bảo thủ Nhật Bản kêu gọi sửa đổi hiến pháp để cho phép nước Nhật tái trang bị. Sự thay đổi chính sách của Miến Điện cụ thể qua việc ngưng công trình đập do Trung Quốc hậu thuẩn hồi tháng Chín năm 2010 và mở rộng hợp tác với Mỹ qua chuyến thăm viếng của Ngoại trưởng Hillary Clinton lần đầu trong nửa thế kỷ cho thấy một tập đoàn quân phiệt bị thế giới lên án cũng đã biết "buông dao đồ tể". Ngay cả Brunei, một quốc gia có dân số vỏn vẹn 400 ngàn cũng đang hiện đại hóa các phi đoàn trực thăng chiến đấu bằng Blackhawk. Giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ biết nuốt nhục để sống. Ngoài những lời tuyên bố về chủ quyền lấy lệ và những thay đổi quốc phòng giới hạn, họ không làm gì cụ thể hơn để đáp ứng với hiểm hoạ chiến tranh lớn nhất trong lịch sử Á Châu sắp xảy ra ngay trên lãnh thổ Việt Nam. 

Học sinh các lớp sử thường đọc Mạc Đăng Dung đã cắt đất Vĩnh An, An Quảng gồm 6 động dâng cho nhà Minh để thuộc vào Châu Khâm như đã ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Sự kiện đó chưa hẳn đúng vì Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết "Nay xét Khâm Châu chí của nhà Thanh, chỉ thấy chép đời Gia Tĩnh (1522 - 1566 ), Đăng Dung nộp trả năm động Ti Phù, La Phù, Cổ Sâm, Liễu Cát và Kim Lặc mà thôi, chứ không thấy nói đến động An Lương. Lại tra cứu đến Quảng Yên sách thì động An Lương hiện nay là phố An Lương thuộc châu Vạn Ninh nước ta." Mạc Đăng Dung, trong hoàn cảnh hai đầu đều có địch, buộc phải trả lại năm động vốn là đất của Trung Hoa chứ chẳng dâng hiến phần đất nào thuộc lãnh thổ Việt Nam mà còn cứu được đất nước khỏi lâm vào vòng lệ thuộc ngoại bang. Dù sao, trong lúc "công hàm Mạc Đăng Dung" có thể có lý do tranh luận, tội bán nước trong "công hàm Phạm Văn Đồng" quá hiễn nhiên, rõ ràng và chính tác giả khi còn sống cũng đã thừa nhận mình đã ký. 

Trước đây sử gia Lê Văn Hưu đã thốt lên câu đứt ruột trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư"Xin trời vì nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà." Nếu sử gia sống trong thời đại này, hẳn ngài sẽ đổi thành "Xin trời vì nước Việt ta sớm đánh thức nhân dân để họ biết đứng lên, tự làm chủ nước nhà." Bởi vì lịch sử đã chứng minh, không ai có thể cứu được dân tộc Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam. Vó ngựa quân Mông Cổ sải từ Á sang Âu, chiếm gần 20 phần trăm trái đất, đốt cháy thành than các thủ đô Kiev, Budapest, Baghdad, Bắc Kinh, vượt qua các sông Hoàng Hà, Volga, Danube nhưng đã phải dừng lại bên sông Bạch Đằng, Việt Nam. Kẻ thù thắng nhiều trận nhưng dân tộc Việt Nam luôn thắng trận cuối cùng và quyết định. Hơn ai hết, giới lãnh đạo Trung Quốc phải thuộc bài học đó. 

Như kẻ viết bài này đã viết trước đây trong tiểu luận "Ai giết 9 ngư dân Thanh Hóa?" một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương tiện hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Quốc mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Nếu không làm được thế, không chỉ Hoàng Sa, Trường Sa, mà cả dân tộc lại sẽ chìm đắm trong họa đồng hóa của thời đại mới. Và khi đó, đừng đổ thừa cho Trung Quốc mà chính sự khiếp nhược, ươn hèn, mê muội trong mỗi chúng ta đã giết chết chính mình và dân tộc mình.