THÔNG BÁO !

Trang blog diễn đàn đã được dời sang địa chỉ mới http://ptlambao.blogspot.com/ . Vui lòng vào đây để theo dõi tin tức mới và tiện việc ủng hộ. Trang này sẽ lưu giữ những thông tin cũ . Xin cả ơn sự ủng hộ của mọi người

TM Ban Điều Hành Blog

14 July 2012

ĐCSVN rất sợ biểu tình yêu nước. Đó là sự thật!



Nguyễn Chí Đức - Xin các đồng chí đừng sợ hãi biểu tình yêu nước khiến cho bất loạn tâm trí mà có những hành động dại dột và phát biểu mê sảng như ông Nguyễn Thế Thảo làm đau lòng, tổn thương dân lành. Chúng ta hãy xem đó là những tiếng chuông vang dền của dân tộc Việt góp phần thức tỉnh các đồng chí lãnh đạo sáng suốt thấu triệt dã tâm của giặc Tàu nhằm tìm ra đối sách quan trọng trong những lúc nước sôi lửa bỏng như thế này. Vì muốn hay không muốn, thích hay không thích trong những lúc này các đ/c đang lèo lái con tàu Việt Nam, đang cầm nắm vận mệnh của dân tộc. Xin các đ/c đừng đẩy 90 triệu dân trong đó có chính người thân, gia đình, dòng họ các đ/c xuống bờ vực thẳm, vào vòng cương tỏa của Tàu Khựa!...

*

Tôi viết những dòng này trong tâm trạng rất tức cười vì một vài xử sự gần đây của chính quyền các cấp liên quan đến biểu tình yêu nước trong tháng 7/2012, biểu tình của nông dân bị cướp đất… 

Ngày hôm nay thứ bảy 14/7/2012, chính quyền địa phương phường Yên Hòa quận Cầu Giấy Hà Nội bất ngờ cưỡng bách giáo dục luật sư Lê Quốc Quân tại địa phương, đồng loạt với việc các báo chí chính thống dồn dập đưa tin về việc côn đồ hành hung nông dân huyện Văn Giang – Hưng Yên. Nhìn qua có vẻ chẳng có liên quan gì đến nhau, nhưng bản chất mục đích của chính quyền nhằm góp phần “rút củi dưới đáy nồi” tinh thần yêu nước của nhân dân đang sục sôi. Một mặt họ cho xả su páp đối với số đông dân thường, mặt khác họ tìm cách dằn mặt những nhân vật có tên tuổi như cụ bà Lê Hiền Đức, TS Nguyễn Xuân Diện, LS Lê Quốc Quân… qua những sách nhiễu vụn vặt. Còn ngày hôm qua, nhân cơ hội chủ trì cuộc họp của HĐNDTP Hà Nội, ông chủ tịch Nguyễn Thế Thảo đã có phát biểu hết sức xuyên tạc và phản động về biểu tình yêu nước nhằm gây hoang mang và chia rẽ dư luận nhân dân thủ đô.

Đó là ở Hà Nội, còn ở Sài Gòn thì sự trấn áp còn khốc liệt, kinh khủng hơn. Đó là lý do vì sao mà năm ngoái, tại Sài Gòn chỉ diễn ra 2 cuộc biểu tình trong khi ở Hà Nội còn kéo dài đến cuộc thứ 11 và trong tháng 7/2012 chỉ diễn ra được một lần duy nhất thì bị dập tắt. Bản thân tôi hôm 1/7/2012 có mặt Sài Gòn cũng được cảm nhận ít nhiều về sự khốc liệt này, đi đâu cũng có 3-4 người đeo bám như hình với bóng thậm chí vào nhà vệ sinh công cộng ở nhà ga cũng có 1 kẻ lạ mặt khoanh tay đứng trước cửa dập dòm. Hôm qua, tôi đảo qua blog danlambao và đọc thấy bản tin “An ninh côn đồ hành hung các blogger” về việc hành hung hết sức thô bỉ, ngang nhiên của thế lực xấu (CA !?) đối với những người đã từng đi biểu tình yêu nước. 

Đó chỉ là một vài sự kiện nóng hổi dồn dập gần đây, ắt hẳn trong quá khứ rất nhiều người đã phải chịu đựng sách nhiễu, đe dọa, khủng bố tinh thần-sức khỏe thậm chí là lao tù mà mục tiêu tối hậu của thế lực xấu nhằm dập tắt những sự phản khảng trước những áp bức bất công, cổ súy cho những cải cách xã hội, vang lên tiếng chuông cảnh tỉnh thống thiết trước họa ngoại xâm… 

Xin hỏi các đ/c lãnh đạo ĐCSVN sợ cái gì? 

Sợ theo Tàu thì còn Đảng nhưng bị lệ thuộc => dẫn đến một thời kỳ Bắc thuộc mới?
Sợ theo Mỹ thì mất Đảng nhưng còn nước? 

Nhưng xin thưa với các đ/c rằng: theo Tàu thì vừa mất đảng mà cũng vừa mất nước. Bởi vì khi mất nước thì nhân dân sẽ căm hận ĐCSVN bất tài vô dụng để mất đảo, mất biển khi đó nhân dân tự khắc sẽ đạp đổ ĐCSVN xuống bùn đen. Các đảng viên thường, các sỹ quan cấp thấp trong các lực lưỡng vũ trang, các nhân viên trong các cơ quan công quyền sẽ tự đào thoát, rã ngũ vứt thẻ đảng trở về với nhân dân. Khi đó nhân dân cùng với tinh hoa của dân tộc là các anh tài, hào kiệt, nhân sỹ-trí thức sẽ tái tổ chức lại 1 ủy ban cứu quốc để chống quân xâm lược như bao đời ông cha tổ tiên ta đã từng làm trước họa ngoại xâm. 

Còn đi theo Mỹ mà thực chất là học hỏi các tiến bộ của văn minh thế giới nói chung thì nước không những không mất mà ĐCSVN cũng vẫn tồn tại. Bởi vì nếu cởi mở về chính trị, tự do tư tưởng/lập hội/báo chí/tôn giáo, hội nhập với thế giới trên tất cả các lĩnh vực thì khi đó ĐCSVN vẫn có cơ hội cạnh tranh, vận động bầu cử như các Hội-Đoàn-Đảng khác sẽ xuất hiện trong tương lai. Nếu ĐCSVN triệt để chống tham nhũng, mạnh tay với bọn sâu mọt, chọn lựa những người tài đức đứng đầu các Chi-Đảng Bộ các cấp thì ĐCSVN vẫn có chỗ dựa mạnh mẽ, đông đảo trong các thành phần công-nông-binh. Cố nhiên khi đó ĐCSVN không còn là tuyệt đối mà chỉ là một thành tố trong Quốc Hội, Chính Phủ mà thôi. 

Hiện nay, nếu ĐCSVN tiếp tục câu giờ nhằm giữ nguyên hiện trạng đầy nhiễu nhương, bất cập mà thực chất chỉ làm lợi cho 1 số kẻ/nhóm thao túng đất nước thì lòng dân càng ngày càng bất an, tham nhũng hoành hoành làm mất sức mạnh dân tộc, giặc Tàu càng có thời gian củng cố tiềm lực quân sự sẽ dứt điểm đánh chiếm khi đủ mạnh và lợi dụng cơ hội bất ngờ. Khi đó thì đảo mất, biển bị khống chế thì ĐCSVN sẽ nhanh chóng bị tẩy chay, không còn bất kì ai tin tưởng về khả năng lãnh đạo quốc gia trước họa ngoại xâm dẫn tới sụp đổ mau lẹ. 

Còn nếu các đ/c trong Bộ Chính Trị, TW của ĐCSVN có tinh thần dân tộc đủ mạnh, tình yêu quê hương đủ thiết tha (*) thì tôi tin chắc các đ/c sẽ suy nghĩ như tôi "Đảng chỉ là nhất thời, Dân tộc mới là vạn đại". Khi đó các đ/c sẽ không bao giờ sợ hãi vu vơ đối với các cuộc tuần hành, biểu tình yêu nước thậm chí ngấm ngầm bật đèn xanh để các cuộc biểu tình nổ ra khắp nơi với hàng triệu người tham gia. 

Đối với tôi những anh hùng của Việt Nam Quốc Dân Đảng, bị thực dân Pháp xử chém năm 1930 trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái trước khi ra pháp trường hô vang “Việt Nam vạn tuế” gây xúc động và giáo dục tinh thần yêu nước mãnh liệt hơn là những tiền bối của ĐCSVN ra pháp trường nhưng lại hét "Đảng Cộng Sản muôn năm".

Hãy can đảm đột phá tư tưởng lên các đ/c của tôi ơi! 

Điều quan trọng nhất chúng ta là người Việt, chúng ta sẽ thông cảm và tha thứ cho nhau như ca dao Việt Nam có câu "Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại". Còn chính quyền Tàu không nhân nhượng với các đ/c đâu, cho dù các đ/c có can tâm tình nguyện hàng ngày (xin lỗi bạn đọc): Lấy tay rửa đít mỗi khi chúng nó ỉa. Bởi vì dã tâm ngàn năm của Đại Hán là xâm lược, đồng hóa, hãm hại các nước làng giềng. Hãy nhìn vào thực tế tình hình các nước chung đường biên giới với Trung Quốc như Ấn Độ, Miến Điện, Triều Tiên, Việt Nam và cả Nga thì chúng ta hiểu bản chất nham hiểm, độc ác, bỉ ổi của Tàu như thế nào. 

Xin các đồng chí đừng sợ hãi biểu tình yêu nước khiến cho bất loạn tâm trí mà có những hành động dại dột và phát biểu mê sảng như ông Nguyễn Thế Thảo làm đau lòng, tổn thương dân lành. Chúng ta hãy xem đó là những tiếng chuông vang dền của dân tộc Việt góp phần thức tỉnh các đồng chí lãnh đạo sáng suốt thấu triệt dã tâm của giặc Tàu nhằm tìm ra đối sách quan trọng trong những lúc nước sôi lửa bỏng như thế này. Vì muốn hay không muốn, thích hay không thích trong những lúc này các đ/c đang lèo lái con tàu Việt Nam, đang cầm nắm vận mệnh của dân tộc. Xin các đ/c đừng đẩy 90 triệu dân trong đó có chính người thân, gia đình, dòng họ các đ/c xuống bờ vực thẳm, vào vòng cương tỏa của Tàu Khựa!

Ông Nguyễn Thế Thảo bị Trung Quốc lợi dụng!?



Nguyễn Tường Thụy - Báo chí đưa tin chiều 13/7/2012, ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hà nội đã phát biểu trước kỳ họp bế mạc của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội.

“Về an ninh trật tự, ông Thảo đặc biệt lưu ý tình trạng tập trung đông người kéo về Hà Nội khiếu kiện có tổ chức theo chỉ đạo của đối tượng xấu. “Lợi dụng tình hình trên, các thế lực thù địch và số cơ hội chính trị đã kích động người dân, nhất là số người đi khiếu kiện ở các địa phương biểu tình để gây áp lực với chính quyền phải giải quyết những khiếu nại, yêu sách”, ông Thảo nói”.

Chủ tịch UBND Hà Nội cũng cho rằng trong các vụ tụ tập, biểu tình phản đối Trung Quốc, cũng có đa số là những người khiếu kiện đất đai bị lợi dụng để gây phức tạp về an ninh – trật tự”.


Lời phát biểu của ông Thảo có một ý cũ và một ý mới nhưng đều khó chấp nhận.

Nói về ý mới, ông Thảo cho rằng, vừa qua, những người nông dân khiếu kiện về đất đai bị lợi dụng tham gia vào cuộc biểu tình chống Trung Quốc để gây phức tạp về an ninh – trật tự.

Ai xúi giục, lôi kéo họ đây? Họ biểu tình chống Trung Quốc là trách nhiệm công dân của họ. Không thể nói những người dân oan không có tình yêu đối với Tổ quốc. Việc họ bị cướp đất, đi đấu tranh đòi quyền lợi và việc đi biểu tình chống Trung Quốc là hai chuyện khác nhau. Cảm phục những người nông dân vừa bị cướp đất, vừa bị đánh mà vẫn không quên trách nhiệm của một con dân nước Việt.

Còn ý cũ, vẫn là những luận điệu mà chính quyền, báo chí nói ra rả từ hơn một năm nay. Đó là việc gán cho những người biểu tình bị thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị lợi dụng, lôi kéo, kích động.

Nói thế, ông Thảo đã đứng ở vị trí bề trên mà nhìn xuống dưới, coi thường những người biểu tình. Ông làm như thể họ là những người không hiểu biết nên dễ bị lợi dụng, còn ông mới là người kiên định. Nói thế là ông đã xúc phạm đến họ. Họ không còn là bầy cừu để cho kẻ khác chăn dắt.

Xin hỏi ông, tại sao ông không lợi dụng họ mà lại nhường sân cho cái thằng vô hình nào đó. Trong tay ông có đủ hệ thống đảng và chính quyền đến tận tổ dân phố, một bộ máy tuyên truyền bằng báo chí, bằng hệ thống loa phường, bằng những buổi huấn thị, lên lớp công khai và cả một bộ máy cảnh sát, an ninh khổng lồ giám sát nhất cử nhất động của từng người dân. Vậy mà các ông lại không lợi dụng được họ mà để mấy thằng thù địch chẳng biết mắt ngang mũi dọc thế nào nó lợi dụng mất. Nói như vậy, có phải là ông đã thừa nhận là ông thua kém chúng nó không?

Và, khi ông nhận xét về những người biểu tình như thế, khi ông chủ trương không để dân bị xúi giục tụ tập biểu tình, ông có nghĩ rằng ông đang bị Trung Quốc nó lợi dụng không?

Người dân có đủ tai, mắt để nghe những lời nói phải, để nhìn xem ai là người làm được những gì cho họ và cho đất nước, ai là kẻ đang phá hoại đất nước, phá hoại cuộc sống và tương lai của họ.

13/7/2012

Ngày 1 tháng 7 - Chuyện cũ kể lại



Huỳnh Trọng Hiếu (Danlambao) - Xin viết bài này kính tặng những người con yêu nước vô danh của dân tộc Việt- những người đã đang và sẽ tiếp tục xuống đường vì lòng yêu nước tha thiết không cần danh tiếng, những em sinh viên vì đi biểu tình mà bị đuổi học trong thầm lặng, không ai đứng ra lên tiếng bảo vệ và can thiệp. Đất nước Việt Nam mấy ngàn năm được kiến tạo phần lớn là nhờ vào những con người vô danh như thế...

*

Hưởng ứng lời kêu gọi của ngài đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Hòa thượng Thích Quảng Độ, anh chị em chúng tôi từ Quảng Nam khăn gói lên đường vào Sài Gòn biểu tình chống Trung Quốc cưỡng chiếm hai quần đảo của Việt Nam là Hoàng Sa năm 1974, và Trường Sa năm 1989. 

Chúng tôi tham gia biểu tình để phản đối Trung Quốc bắn giết ngư dân Việt Nam trên vùng biển Việt Nam, phản đối Trung Quốc mời thầu các lô dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam. Anh chị em chúng tôi chỉ muốn dùng số đông trên đường phố nhằm: áp lực chính quyền Hà Nội cương quyết hơn trong các hồ sơ liên quan đến biển Đông; đánh động dư luận quốc tế về mối hiểm họa từ Trung Quốc, nhờ sự quan tâm và can thiệp của họ vào vấn đề biển Đông nhằm đảm bảo tự do lưu thông hàng hải.

Sáng ngày 1 tháng 7, chúng tôi gồm 6 thành viên: Huỳnh Thục Vy cùng chồng là Lê Khánh Duy, Huỳnh Khánh Vy cùng chồng là Đỗ Minh Đức, Huỳnh Trọng Hiếu và bạn là Tống Vy Trầm Hương.

Khoảng 7h sáng, chúng tôi rời khu trọ để đến công viên 30/4, thì phát hiện có khoảng 4 người lạ mặt đã canh cửa phòng trọ anh Duy từ sớm. Họ bám theo chúng tôi và liên tục thông tin cho nhau để theo dõi trên từng chặng đường. Sau này, khi bị bắt vào đồn công an, tôi mới biết họ theo dõi mình kể cả khi vào quán bún bò. Biết mình đang bị theo dõi, chúng tôi chia thành 3 nhóm và hẹn nhau ở nhà thờ Đức Bà.

Đúng 7h30 chúng tôi đã có mặt tại công viên 30/4, gần nhà thờ Đức Bà. Chúng tôi mặc áo No U, cầm biểu ngữ đi dạo xung quanh công viên để thu hút những ai có cùng tấm lòng với đất nước. Tại đây, có rất nhiều bạn trẻ yêu nước cùng tham gia với chúng tôi. Đoàn người tiếp tục dạo quanh công viên 30 tháng 4, mỗi lúc số lượng người gia nhập nhóm càng đông hơn. Đặc biệt đáng chú ý và cảm động là trong đoàn chúng tôi có sự tham gia của hai nhà sư mặc nâu sồng. Một vị đã lớn tuổi, râu tóc bạc, dáng đi chậm chạp yếu ớt. Giờ tôi mới biết vị tăng sĩ này ở chùa Hòa Khánh, trước năm 1975, ông là tiến sĩ làm việc trong Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt.

Đoàn người tiếp tục tuần hành được 30 phút. Đột nhiên, từ tứ phía, lực lượng công an chìm nổi và cả lực lượng quản lý đô thị hùng hậu đã xông vào tóm lấy chúng tôi. Họ tóm tóc chị Thục Vy rồi bẻ ngược tay lại phía sau đẩy vào trong xe. Chồng của chị Vy là anh Lê Khánh Duy lao vào bảo vệ thì bị họ bẻ cổ, đánh túi bụi vào đầu, vào mặt và cố tách anh ra. Còn tôi bị họ giật mất tấm biểu ngữ ghi: “Đàn áp biểu tình chống Trung Quốc là phản quốc” rồi bị bẻ ngặt tay ra sau đẩy lên xe. Cùng lúc đó, chị Khánh Vy và anh Minh Đức cũng xông vào và cũng bị họ lôi lên xe. 

Chúng tôi dùng hết sức để phản kháng và hô lớn: “Hoàng Sa- Trường Sa-Việt Nam”“Các anh có phải người Việt Nam không?”… Nhưng họ quá đông, tôi nhanh chóng bị tóm vào xe. Vừa lọt vào trong, tôi nhận ra một tên công an đang nắm tóc chị Thục Vy giật mạnh trong tiếng la thất thanh, tôi vùng lên đẩy anh ta ra và chỉ vào mặt tên công an hỏi: “Anh có phải là người Việt Nam không”. Ngay lúc đó, hắn ta chuyển sang đối phó với tôi, tôi bị hai tên công an khác xô ngã bổ nhào lên người chị hai tôi khi chị chưa kịp đứng lên. Thuận tay, tên công an liền bóp cổ tôi ghì chặt xuống sàn, cả trọng lượng của tôi đè lên người chị hai. Tôi lại nghe thấy tiếng kêu thất thanh, lúc đó anh Duy nhảy vào kéo tên công an ra và tôi với chị hai vùng dậy thoát ra khỏi xe khi cửa chưa kịp đóng và hô to “Hoàng Sa- Trường Sa-Việt Nam”.

Tôi dùng thân hình chặn cánh cửa chiếc xe 16 chỗ không cho họ đóng lại, ba bốn tên công an cố sức đẩy cánh cửa vào làm cho cánh tay tôi đau buốt, tôi vẫn đứng chặn cánh cửa xe và miệng hô to “Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam”, “Đàn áp biểu tình là phản quốc”, “Phản đối việc trấn áp biểu tình”. Anh Duy cũng vùng lên để thoát ra khỏi xe và hô to trong nước mắt: “Mất nước rồi các anh ơi”. Anh Đức cũng nhoài người ra khỏi xe la lớn: “Tại sao các anh phải làm thế, chúng ta là người Việt Nam mà”. 

Tôi đẩy bọn công an ra khi họ nắm lấy cổ tôi và la lên: “Các anh là những kẻ phản quốc”. Mấy tên công an hét vào mặt tôi: “Mày vào xe không tau sẽ đánh mày”. Tôi hướng mắt về phía họ để phân bua điều hơn lẽ thiệt, nhưng ánh mắt họ vô cảm. Một sự vô cảm đáng sợ! Tên an ninh thường phục mặc áo màu vàng xông vào đấm mạnh vào đầu tôi khiến tôi choáng váng, lảo đảo. Lúc đó, anh Duy cũng nhiều lần bị đánh vào mặt, vào đầu. Tôi nhận thấy vài người trong đoàn người tụ tập ở đó đã bật khóc. 

Vì chiếc xe khá nhỏ nên chúng tôi, hết người này đến người khác, xông ra hô lớn, bọn công an khống chế người này thì người kia thoát ra. Trong lúc mọi việc diễn ra hỗn loạn, có ba tên công an, hai người bẻ ngoặc hai tay bạn tôi là Tống Vy Trầm Hương ra sau, một người khác bóp cổ quăng lên xe. Chị Khánh Vy hoảng hốt xông vào bảo vệ Hương thì bị hai ba tên công an khác tống luôn vào xe. Tôi vẫn tiếp tục chặn cửa ra vào để mọi người thuận tiện hô. Tiếng la ó khi bị bẻ tay, bẻ cổ, hòa với tiếng hô thất thanh, tiếng người đứng xung quanh làm cho không khí trở nên vô cùng căng thẳng.

Dằng co khoảng 20 phút thì chúng tôi nhận ra nhóm của luật gia Lê Hiếu Đằng, giáo sư Tương Lai, ông Hồ Cương Quyết cũng có mặt tại chỗ. Nhiều cô chú bác đã rất bức xúc và xông vào muốn cứu chúng tôi nhưng lực lượng an ninh và trật tự đô thị quá đông.

Công an nhận thấy, để đưa 6 người chúng tôi lên chiếc xe 16 chỗ thật khó khăn nên họ đã điều động chiếc xe bus nhiều chỗ, có cửa rộng hơn để dễ đối phó. Họ tóm lấy chúng tôi và kéo lên xe trước sự chứng kiến của đông đảo người dân Sài Gòn. Đến lúc này, anh chị em chúng tôi đã mệt đứt hơi, không thể phản kháng được nữa nên đành ngồi yên trên xe để bị đưa đi. 

Tôi, chị Thục Vy, anh Duy, Trầm Hương, và cô bé Tiên bị đưa lên xe lớn còn chị Khánh Vy và anh Minh Đức bị đưa vào xe nhỏ. Khi xe chuẩn bị lăn bánh, luật gia Lê Hiếu Đằng nhảy ra chặn đầu xe lại la lớn: “Các ông giết tôi đi, các ông giết tôi đi” nhưng bọn công an đã kéo ông ra khỏi lòng đường.

Ở trên xe, chúng tôi tiếp tục hô “Hoàng Sa - Trường Sa”, tôi mở cửa hông xe để nhoài đầu ra ngoài hô lớn thì bị tên an ninh mặc áo thun màu vàng lôi vào bóp cổ. Chị Thục Vy và anh Duy xông vào phản ứng quyết liệt nhưng tên an ninh vẫn liên tục bóp cổ tôi (sau khi được thả, tôi về nhà ba ngày nói không thành tiếng), những tên khác đánh anh Duy và chị Vy trên suốt đoạn đường từ công viên về trụ sở công an phường Cô Giang.

Chị Thục Vy và anh Khánh Duy bị đưa vào trụ sở công an phường Cô Giang. Tôi, Trầm Hương và Tiên bị đưa vào công an phường Cầu Kho. Anh Đức và chị Khánh Vy bị công an chở đi đâu lúc đó chúng tôi không biết.

Tại trụ sở công phường Cầu Kho, ba người chúng tôi bị chia ra mỗi người một phòng. Một mình tôi làm việc với trên 10 tên công an phường dưới sự chỉ đạo của những nhân viên an ninh mặc thường phục. An ninh thường phục chỉ ngồi im lặng và theo dõi buổi làm việc. Tôi nhận thấy rằng, cứ sau một người nói chuyện mềm dẻo thì có một người khác xông vào hăm dọa dùng vũ lực với tôi. Tôi tuyên bố tuyệt thực để phản đối việc bắt giam trái phép của cơ quan công an. Nhưng khi tôi yêu cầu được uống nước thì họ từ chối thẳng thừng. Tôi đã phản đối gay gắt và họ buộc phải nhượng bộ sau đó. Lực lượng công an tại phường Cầu Kho thay phiên nhau yêu cầu tôi làm việc khiến tôi vô cùng mệt mỏi sau buổi sáng giằng co căng thẳng. Tôi nhiều lần yêu cầu được nghỉ ngơi nhưng họ tìm mọi cách để quấy rối, khủng bố tinh thần tôi.

9h tối ngày 1 tháng 7, cơ quan công an phường Cầu Kho yêu cầu tôi giao nạp tất cả các loại thiết bị điện tử. Lúc đó, tôi chỉ có một chiếc điện thoại di động Nokia X6 (được anh rể tặng), và tôi từ chối giao nạp vì quyền thư tín và quyền bảo về tài sản cá nhân bất khả xâm phạm. Sau một hồi bị đe dọa, tôi vẫn cương quyết bảo vệ tài sản cá nhân của mình thì có hai tên an ninh thường phục xông vào bẻ cổ tôi. Cổ tôi bị bóp ngặt khiến người tôi bất động, họ kéo lôi nằm lơ lửng trên chiếc ghế chỉ còn đứng bằng hai chân sau. Hai người khác xông vào móc trong túi của tôi chiếc điện thoại và sau đó họ để tôi nằm sóng soài trên nền. Tôi bị họ bẻ cổ rất mạnh nên cổ tổn thương, về đến nhà tôi không thể ăn được mặc dù rất cố gắng, vài hôm sau tôi mới bớt đau.

Đến 11h30 đêm hôm đó, tôi được họ cho về khi trong túi không có điện thoại để gọi về nhà. Lúc hai bên giằng co, tiền bạc và giấy tờ tùy thân của tôi bị thất lạc. Bụng bị đói cồn cào vì không được ăn uống. Tôi phải tìm cách xin xe về đến nhà. 

Tiên, một cô gái xinh xắn, yêu nước, và nhân hậu đã bị bắt lên xe khi cố gắng xông vào cứu chúng tôi. Cô ấy chỉ được thả trước tôi nửa tiếng. Tống Vy Trầm Hương được thả ra cùng lúc với tôi.

Lúc về đến chỗ trọ, chúng tôi thấy anh Duy và chị Thục Vy đã ở đó với thân thể thâm tím và mặt mày xơ xác. Và được biết, họ đã thả anh Minh Đức và chị Khánh Vy ngay sáng hôm đó.

Tôi viết bài này để tố cáo những hành vi vi phạm nhân quyền trắng trợn của công an phường Cầu Kho, phường Cô Giang và cả lực lượng an ninh thành phố Sài Gòn đối với anh chị em tôi. Qua đó, cũng minh chứng cho công luận thấy rõ bộ mặt phản quốc của chế độ Cộng Sản VN. Đồng thời, tôi muốn đánh động với công luận về trường hợp, những người mới tham gia biểu tình, bị đàn áp nhưng không được công luận nhắc đến. 

Bé Tiên và Trầm Hương cùng sát cánh bên chúng tôi suốt cuộc giằng co và cả trên đồn công an, họ đã vô cùng can đảm khi phải đối phó với lực lượng an ninh lên đến cả trăm người. Gia đình chúng tôi đã quen đối phó với những khủng bố, đàn áp của công an CSVN từ hai mươi năm trước, khi ba tôi bị bắt và tuyên án tù vì viết văn. Tuy nhiên, đối với những người con gái tuổi mới đôi mươi như Tiên và Trầm Hương thì đây quả là một áp lực vô cùng to lớn. Xin được nghiêng mình trước sự dũng cảm mà Trầm Hương và Tiên đã thể hiện. 

Đây là những gương mặt hoàn toàn mới trong cuộc biểu tình yêu nước ngày 1/7 tại Sài Gòn. Họ đã cùng chúng tôi thể hiện lòng yêu nước, đấu tranh cho sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam nhưng công luận không biết họ là ai. Họ có thể sẽ gặp nguy hiểm trước khi được mọi người biết đến và bảo vệ. 

Các cơ quan truyền thông cần có sự lên tiếng kịp thời để bảo vệ những gương mặt yêu nước mới tham gia này. Đây là cách hiệu quả nhất để nói với nhiều người chưa tham gia hoặc những người còn đang phân vân, dè dặt rằng: họ không đơn độc, họ sẽ được an toàn và truyền thông luôn đứng bên cạnh họ khi tham gia biểu tình. 

Nếu chúng ta không có sự truyền thông rộng rãi, công bằng và không quá chú trọng đến việc đánh bóng tên tuổi cá nhân, chúng ta sẽ khó có thể có được những phong trào xã hội rộng lớn trong tương lai. Điều này sẽ là một cản trở vô cùng lớn đối nỗ lực bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và dân chủ hóa đất nước. 

Huỳnh Trọng Hiếu xin viết bài này kính tặng những người con yêu nước vô danh của dân tộc Việt- những người đã đang và sẽ tiếp tục xuống đường vì lòng yêu nước tha thiết không cần danh tiếng, những em sinh viên vì đi biểu tình mà bị đuổi học trong thầm lặng, không ai đứng ra lên tiếng bảo vệ và can thiệp. Đất nước Việt Nam mấy ngàn năm được kiến tạo phần lớn là nhờ vào những con người vô danh như thế. Xin đa tạ!

Tam Kỳ ngày 10 tháng 7 năm 2012


Bán đất nhà người (Phần 2)





A. Trung cộng gọi thầu trên nước Việt.

Không phải đến hôm nay Trung cộng mới thực hiện chủ nghĩa “Bán Đất Nhà Người”, nhưng từ thời cổ đại, họ đã làm những việc ấy. Những Hàn, Triệu, Tống, Ngụy, Tần, Tấn, Sở, Vệ... chẳng bao giờ có được cuộc sống yên bình bên nhau. Trái lại, cuộc toan tính, thôn tinh lẫn nhau không bao giờ ngừng. Hết tung đến hoành. Hết hoành lại tung! Chi đến khi Tần thủy Hoàng mạnh thế hơn, diệt gọn thất hùng, đốt sách chôn học trò thì cái chuyện bán Hàn, bán Ngụy, bán Triệu... mới chấm dứt.

Tuy thế, cái mộng bành trướng thì không bao giờ ngừng lại. Khi Thành cát tư Hãn chiếm được Trung Hoa, lập nên nhà Nguyên, đoàn chiến mã hung hãn của ông ta vùng vẫy từ Á sang đông Âu. Những tưởng là sáng dẹp biển bắc, chiều định bến Nam. Không có sông nước, thảo cỏ nào có thể ngăn cản được đoàn chiến mã hùng mạnh ấy? Kết qủa, cả người lẫn ngựa đều chìm xuống sông Bạch Đằng. Nói toạc ra là các thế lực từ Hán, Nguyên, Minh, Thanh... đã không thể tràn xuống phương Nam vì ở đó có một Nhà Nam hùng tâm tráng chí với những quân vương, danh tướng vì dân như Ngô Quyền, Lê Lợi, Hưng Đạo Vương, Nguyễn Huệ...!

Đến thế kỷ 20, những lê dân của Hàn, Triệu, Tề, Ngụy, Sở, Tấn, Tần... đã bạc nhược dưới đế ngựa Mông Nguyên, thêm một thời cúi đầu cắt tóc để chỏm đuôi ngựa của Mãn Thanh. Trung quốc đã chẳng còn là chính mình. Tệ hơn thế, trở thành miếng mồi, thành những vùng tô giới của Tây Phương chia xé, hoặc chịu nhận sự thống trị của con cháu thần Thái Dương. Cuối cùng lễ giáo của Khổng, Mạnh phải nhường chỗ cho Mác, Lê, một chủ thuyết gian trá, và dựa vào thế lực cộng sản từ Liên Sô, Trung quốc mới có cơ may thống nhất, chấm dứt cảnh bị chia thành những vùng tô giới vào năm 1949. Rồi sau khi hoàn tất cuộc đấu tố với hơn 2 triệu người chết và hoàn thành cuộc “cách mạng văn hóa”, một kiểu đốt sách chôn học trò của bạo Tần tái diễn, chôn vùi toàn bộ những gía trị luân lý đạo đức của xã hội xuống vũng bùn nhơ, cho suy đồi tham vọng nổi lên, Trung cộng tạo thành một nước cộng sản có số dân đông nhất thế giới. Tuy thế, trong suốt thời kỳ cực thịnh của chủ nghĩa CS, TC không tạo được một thế lực riêng. 

Tính ra, phải mất nửa thể kỷ núp dưới vạt áo của Liên Sô để thực hiện tận tình chủ nghĩa "bán đất nhà người” đối với người dân ở trong nước, Trung Cộng mới dám vượt rào cản Liên sô, có bước đi riêng khi đón TT Nixon của Hoa Kỳ vào năm 1972. Chuyến đi này đã đưa TC sang một thế đứng hoàn toàn đổi khác. Trước tiên, họ lặng lẽ chấp nhận làm ăn gia công với gía rẻ cho thế giới tư bản. Kế đến, nhờ đó mà cóp nhặt, trau giồi kỹ thuật tân tiến từ bên ngoài. Đến nay, đặc biệt là từ khi khối CS Liên Sô tan rã vào năm 1989, TC đã nổi lên như một thế lực mới. Thế lực kinh tế của TC tuy không nằm trong hàng công kỹ nghệ nặng, nhưng hàng gia dụng từ cái đinh ốc, cái chỗi quét nhà, cái búa đóng đinh, cho đến những tiện ích cá nhân như máy tính, truyền hình... với nhãn hiệu Trung cộng hầu như đã tràn ngập thế giới. Những thành phẩm này đã đem về cho Trung cộng nguồn lợi nhuận rất dồi dào. Hơn thế, họ lại trở thành chủ nợ của anh nhà nghèo hào phóng Hoa Kỳ. Trong cái thế ấy, buộc TC phải vươn vai đứng dậy.

Khi đứng dậy, người ta thường có khuynh hướng nhìn lên, TC lại khác. Dù không muốn, TC không hề có ý định mở mang tầm ảnh, gây hấn với cựu "đồng chí” Liên sô. Hơn thế lại tỏ ra thân thiện với người anh em một thời “môi hở răng lạnh” này. Và dĩ nhiên, TC rất bực mình với cái nhóm ốc đảo là con cháu của thần Thái Dương đứng chắn trước mặt, đã có thời đạp gót giày trên phần đất của Trung Hoa vĩ đại! Nhục thì chưa quên, nhưng xem ra “nó” còn mạnh lắm, không thể bung ra phía trước mặt được. Kết qủa, chỉ còn một hướng duy nhất. Nhìn về phương nam. Trung cộng quyết liệt ăn thua với những nước láng giềng nhỏ bé ở phương nam này.

B. Phản ứng từ Phương Nam.

Phương Nam, mảnh đất màu mỡ và tiền rừng biển bạc, cách riêng là Việt Nam, nơi mà những Tống, Hán, Minh, Nguyên, Thanh... đã bao lần muốn nuốt gọn, thay tên đổi họ cho nó. Kết quả, mỗi lần mộng bành trướng muốn bung ra là một lần chính những kẻ mang ảo giác này ôm hận, ngậm đắng nuốt cay. Không phải một lần nhưng là nhiều đời truyền nhau, dù rằng ở nơi ấy cũng có những kẻ đưa đường, cỏng rắn cắn gà nhà, bán nước cầu vinh như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống. Nhưng nay xem ra, Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản còn tồi tệ hơn những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc cả ngàn lần. Nó tồi tệ vì, bên ngoài, họ không thể nhìn ra từ trong đáy mắt của những quan cán Trung cộng luôn đánh gía về tập đoàn này không khác gì bọn giá áo túi cơm, bọn tay sai, nhưng lại mang ảo giác chủ nghĩa đại đồng “anh em”. Tuy được TC môi mép gọi là “đồng chí”, nhưng thực ra là những tôi tớ phải nương nhờ vào Trung cộng mà sống còn. Biết thế, nên ngày đêm họ tranh nhau dẹp đường, mở lối, cởi áo ra mời báo ơn quan cán TC. 

Bên trong, trí khôn của con chuột nhắt ở phương Nam lại tự mãn, vỗ ngực cho rằng: Ta đây là đồng chí, là bằng hữu với những đồng chí vĩ đại Trung quốc. Ta ngồi cùng mâm, ăn cùng bàn với người “anh em” này. Ta và họ cùng vai, cùng vế, cùng gìn giữ 16 chữ vàng dẻo để “bên đây biên giời là nhà, bên kia biên giới cũng là quê hương theo chủ nghĩa cộng sản” ta sợ gì ai? Vỗ ngực kiểu tôi tớ, vay mượn như thế, nên họ buộc phải dương oai diệu võ, bạo tàn với người dân để phô trương thanh thế và che cho bớt cái phần áo nô lệ.

Kết quả của cái ảo giác “bằng hữu” và tình “đồng chí” là sau khi đem áp dụng toàn bộ những sách lược của cộng sản, từ việc đấu tố nhân dân cho đến “thu mua”, “cưỡng chế” Tự Do, Nhân Quyền, Công Lý theo ý Mao. Hồ chí Minh và tập đoàn CS đã biến nước Nam, một dân nước với hùng tâm tráng chí qua bốn ngàn năm không còn một hình tượng nào như trước. Mặt tinh thần thì thành khối u bạc nhược, thất chí, chia rẽ, thụ động: “mặc mẹ chúng nó, muốn làm gì thì làm” kẻo lụy vào thân! Nhà nhà, người người đều mũ nỉ che tai, áp dụng kế không nghe, không biết, không nói để tồn tại qua ngày. Riêng tấm bản đồ của mẹ Việt Nam thì mỗi ngày mỗi teo tóp lại. Đã thế, phần nội địa thì bị phân chia, quy hoạch cho thuê, cho mướn, biến thành từng mảng da beo, da cọp nằm trong tay Trung cộng kiểm soát! Nhìn quê hương bị giày xéo, chia cắt tang thương như thế, có người dân nào mà không rơi nước mắt?

Nói cho ngay, đứng trước cảnh Trung cộng dùng sức mạnh áp đặt chủ quyền, công khai đặt nền hành chánh trên những quần đảo Trường Sa và Trường Sa của Việt Nam, rồi rao gọi, bán đấu thầu tìm nguồn khai thác tài nguyên trên vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không có một người dân Việt Nam nào mà không tràn nước mắt, đau đớn, uất hận. Nhưng tiếc thay, người dân biết lấy gì để bảo vệ quê hương đây? Bởi vì:

1. Người ta không thể bảo vệ cái mà người ta không xác nhận là nó thuộc về mình.

Trong bản công hàm của Phạm văn Đồng ký vào ngày 15-8-1958 không nhắc gì đến một chút gọi là chủ quyền của Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa. Trái lại, chỉ xác minh chủ quyền 200 Hải Lý ở vùng này là thuộc Trung Cộng. Rồi Ung Gia Khiêm, thứ trưởng ngoại giao Việt cộng lúc đó còn nói rõ là, “Nó thuộc về Trung cộng theo tính lịch sử”. Nghĩa là qua văn kiện và những lời tuyên bố này, chính phủ gọi là “ việt nam dân chủ cộng hòa” do Hồ chí Minh làm chủ tịch, Phạm văn Đồng làm thủ tướng, không cần biết Trường Sa, Hoàng Sa nằm ở đâu, thuộc chủ quyền của ai. Họ chỉ biết, phía Trung cộng ra thông báo ngoại giao, bảo nó thuộc về của Trung cộng là lập tức họ đáp ứng yêu cầu, công nhận cho Trung cộng thoả lòng.

Đây chính là một hình thức, một cách từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất này, bất kể lý do là thù nghịch với tổ quốc và nhân dân Việt Nam hay với chính quyền của miền Nam Việt Nam. Hoặc là sự đổi chác, bán chủ quyền cho Trung cộng. Nghĩa là, công hàm ấy chỉ mang một ý nghĩa duy nhất. Nó không thuộc về Việt Nam. Nó thuộc về Trung quốc! Tất cả những ai, học gỉa quốc tế, hay dân thường, đọc bản văn này một cách khách quan đều nhìn thấy rõ cái nghĩa này của nó mà không cần giải thích thêm.

Tưởng nên nhắc lại ở đây là hội nghị quốc tế ở San Francisco 1951, đã bác bỏ đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo Hoàng Sa, Trương Sa do Liên Sô đưa ra. Trong phiên khoáng đại ngày 5-9-1951 Andrei A. Gromyko – Ngoại trưởng Liên Xô, đưa ra đề nghị gồm 13 khoản tu chính để định hướng ký kết hòa ước với Nhật Bản. Trong đó có khoản tu chính liên quan đến việc “Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam”. Kết qủa, 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận, Hội nghị đã bác bỏ yêu cầu này của phái đoàn Liên Xô.

Trong khi đó, phía Việt Nam đã tham dự Hội nghị San Francisco với tư cách là thành viên trong khối Liên hiệp Pháp. Đại biểu VN đã tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Hội nghị, mà không có sự phản đối nào của các nước tham gia. Nghĩa là hội nghị chấp nhận lời tuyên bố về chủ quyền này của phái đoàn Việt Nam một cách toàn diện.

Riêng phía Trung cộng, tuy bị bác bỏ lời yêu cầu trong hội nghị tháng 9-1951 ở San Francisco, nhưng nội dung công hàm đề ngày 4/9/1958 của Chu Ân Lai lại đặt để chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa, Trường Sa và sau đó được Quốc Hội Trung Quốc biểu quyết thuận theo nội dung công hàm này! Rõ ràng là một sai trái. Khốn thay, nhà nước VNDCCH đã xác minh thuận theo cái ý này của TC, ta lấy gì mà đòi? Chờ lập quy bằng một luật mới chăng?

2. Việt Nam có thể tái xác minh chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa theo tính lịch sử và luật mới không?

“Luật Biển” do QH/ CHXHCNVN với 495 phiếu thuận và một phiếu chống thông qua vào ngày 21-6-2012 và có hiệu lực từ ngày 01-01-2013, xem ra có phần khác biệt với cái công hàm vô trách nhiệm trước kia của Phạm văn Đồng. Trong đó có những điểm:

“Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.

Điều 2. Áp dụng pháp luật

1. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về chủ quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp dụng quy định của Luật này.”

Theo mặt chữ. Chữ “điều chỉnh” ở đây có thể được hiểu là làm lại cho đúng, hay sửa lại những điều sai trái. Nghĩa là trước đây Phạm văn Đồng, do Hồ chí Minh chỉ đạo, đã ký một cái công hàm hoàn toàn sai trái và vô trách nhiệm trong thời chiến, thì nay, QH của nước CHXHVNVN phải điều chỉnh lại những sai lầm ấy cho đúng với tính pháp lý và căn bản của sự việc? Nhìn chung thì đúng, nhưng tính thực hành của điều khoản lại tùy thuộc vào ứng dụng, không phải dựa vào vài chữ viết. Kế đến điều 2. Đề cập đến tính pháp lý của bộ luật. Xem ra, dù còn nhiều lấn cấn, vì không dám nhìn nhận và xóa bỏ giá trị sai lầm của một văn bản cũ (hiệu lực hồi tố). Nhưng nếu điều 2 được áp dụng đứng đắn và triệt để theo luật hồi tố, bộ luật này cũng có khả năng hủy bỏ, tiêu hủy cái gía trị trong bản công hàm Phạm văn Đồng ký trước kia. Nhìn tổng quát, nó có dự trù điểm tích cực để đưa đến một kết luận trong điều 19 về đảo và quần đảo:“Điều 19 Đảo, quần đảo 2. Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam”

Tuy thế, thời hạn “trống” qúa dài từ ngày thông qua bộ luật cho đến khi nó có hiệu lực thi hành là một bất lợi. Người ta có thể hiểu rằng. Bộ luật muốn báo cho phía Trung quốc biết, họ vẫn có quyền gọi đấu thầu trên vùng lưỡi bò nằm trong khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho đến hết ngày 31-12-2012 (theo gía trị công hàm của PVĐ), nên bên ấy muốn làm gì thì làm cho nhanh đi, đừng để phiền cho chúng tôi. Theo đó, nếu Trung cộng thành công trong việc gọi thầu trên cái vùng lưỡi bò nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trước ngày 31-12-2012 thì việc tranh chấp càng xa vào vũng lầy, không lối thoát? Việt Nam đành chấp nhận mất luôn vùng đặc quyền kinh tế mà quốc tế công nhận năm 1982 chăng? Ở trong trường hợp này, cái luật biển vừa được thông qua, liệu có khác cái kịch bản “ cưỡng chế” Đầm tôm Hải Phòng với câu tuyên bố là Sai luật, nhưng Đoàn văn Vươn (VN) chủ đất bị bắt, bị mất đất. Phần nhà nước (TC) và cán cộng vẫn đại thắng, hưởng lợi trong cả hai trường hợp tuyên truyền và lợi nhuận?

Sở dĩ có sự nghi ngờ này là vì: ngay trong bản hiến pháp của nhà nước này đã công bố. Sửa đi sửa lại nhiều lần. Lần nào thì cũng có nhiều điều khoản bảo đảm Tự Do, Công Lý, Nhân Quyền, Quyền Sở Hữu, trong đó có quyền tự do Tôn Giáo của người dân, nhưng những điều khoản này chỉ có thể tồn tại trên mặt chữ viết, không bao giờ có trong thực hành. Liệu cái luật biển này có là ngoại lệ? Hay nó cũng chỉ là ván bài “ chữ viết” không có thực hành như chính lời của Nguyễn phú Trọng đã xác nhận trong bài diễn văn đón bà Hillary Clinton ngày 12-7-12: “người ta vẫn bảo đừng nghe những gì cộng sản nói”, chắc chưa ai quên? 

3. Sức mạnh bảo vệ chủ quyền của quốc gia không nằm ở trong nhóm người cầm quyền, nhưng là sức mạnh từ lòng dân.

Bên cạnh sự đa trá trường kỳ của nhà nước CHXHCN/VN, còn một nghi vấn trong thực tế nữa là: Ai cũng biết, ngoài việc phải xác minh Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam theo thời gian và lịch sử trên giấy trắng mực đen trong luật biển vẫn chưa đủ, nhưng còn phải vận động được sức mạnh của toàn dân mà bảo vệ lấy chủ quyền ấy nữa. Bởi vì, nếu không nhờ sức mạnh và sự hy sinh của toàn dân, không một nhóm người lãnh đạo nào có thể bảo vệ được chủ quyền quốc gia. Đó là quy luật, dẫu là bất thành văn, nhưng đảng và nhà nước CS thì lại hành động trái ngược với quy luật ấy.

Trong khoản 2 điều 4 luật biển này có ghi “2. Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển”. Viết thế, nhưng xem ra đây chỉ là ngôn từ nhà nước vẽ vời ra cho vui mà thôi. Nó không có tính huy động người dân Việt đứng lên bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Bằng chứng là, có nhiều người Việt Nam ở trong nước đi biểu tình, bày tỏ lòng yêu nước, trong tay cầm tấm bảng TSHS/ Việt Nam là ăn no đòn của công an nhà nước. Lý do tại sao? Chắc họ không cần đến sức mạnh từ lòng dân, nhưng cần giữ 16 chữ vàng “dẻo” viết trên giấy để cho TC hài lòng và họ có lợi nhuận là được?

Đó là câu hỏi lớn. Bên cạnh những tiêu cực ấy, còn những bước đi tối quan trọng, cần phải làm ngay để huy động được sức mạnh của toàn dân để bảo vệ tổ quốc. Nhưng xem ra Việt cộng không muốn, hoặc không bao giờ dám làm. Đó là sự thay đổi, điều chỉnh lại cho đúng phương cách ứng xử với người dân trong nước. Nói toạc ra rằng, nếu nhà nước cộng sản có ý định bảo vệ hoặc nhờ sức mạnh của toàn đân để bảo vệ bờ cõi của tổ quốc như họ nói thì cái luật biển kia chỉ là phần phụ thuộc. Phần chính yếu phải là một văn kiện chính thức, minh bạch, xác minh tự hủy đi cái cung cách, cái bạo lực “trưng mua”, “trưng thu”, “cưỡng chế”, “quy hoạch” những phần tài sàn là vật chất hay là tinh thần của toàn dân Việt Nam bằng dao mã tấu mà họ đã từng quen tay nghề.

Thực hiện được “điều chỉnh” này, chẳng cần tới cái bản văn về luật biển, cái lưỡi bò của tàu cộng cũng bị cắt cụt. Bằng chứng là tiền nhân ta, từ Thống Soái Ngô Quyền, hai bà Trưng, Đức Hưng Đạo Vương, Đức Lê Lợi, Đức Quang Trung... có cần gì đến cái luật biển làm nền mà tổ quốc Việt Nam vẫn ngàn năm kiên vững, khiến bắc phương nghe đến tên là vỡ mật. Tiếc rằng cho đến nay không có dấu chỉ nào cho một cuộc đổi thay, điều chỉnh như thế. Trái lại, những đàn áp dân tình dã man, những quy hoạch, những cường chế càng lúc càng bạo ngược hơn. Nhìn đó, đa phần cho rằng, khéo mà nó chỉ là cái bánh được phép vẽ ra như thế?

Nếu nó chỉ là cái bánh được phép vẽ ra để phỉnh phờ. Nếu tiếng nói của người dân không được tôn trọng, không có chổ đứng và tập thể CS vẫn như những chân rết, bám chặt và đan kín kẽ lấy nhau để cùng thực hiện chủ nghiã “Bán đất nhà người”, “thu mua” những thứ mà người dân không muốn bán bằng bạo lực, bằng man rợ, thì chắc chắn, những chân rết ấy cũng sẽ bị bánh xe của lịch sử nghiền nát theo luật tái quy, hồi trả. Bởi lẽ, chế độ chỉ là một khoảng thời gian. Tổ quốc là miên viễn. Toàn dân là sức mạnh. Dân thì sống với tổ quốc. Họ sống và chết là để bảo vệ tổ quốc. Họ không chết vì một chế độ nào.